Mỹ: Ngành nông nghiệp gặp khó; Trump làm thế giới 'chao đảo'; Bầu cử Tổng thống thời ít tiền; 'Quay xe', chỉ trích Israel

Ngành nông nghiệp Mỹ gặp khó khăn lớn

Năm 2023 là khoảng thời gian mà sự suy giảm thị trường diễn ra mạnh nhất trong một thập kỷ và thậm chí còn kéo dài sang cả năm 2024, tác động tiêu cực tới lĩnh vực nông nghiệp Mỹ.

Vụ thu hoạch ngô với sản lượng cao kỷ lục ở Mỹ và Brazil, cạnh tranh gia tăng, và nhu cầu trong nước hạn chế đã dẫn đến số lượng ngô lớn tồn đọng trong kho, đẩy giá ngô của Mỹ xuống mức thấp nhất kể từ tháng 11/2020 vào thứ tư (21/2).

Giá đậu tương cũng giảm mạnh xuống mức giá thấp nhất trong hơn ba năm vào tháng Hai. Người nông dân đã phải đưa ra những quyết định khó khăn để xác định thời điểm bán sản phẩm khi đối phó với khả năng mất mùa. Giá ngô giao kỳ hạn đạt gần 6,30 USD/bushel (1 bushel tương đương 25,4 kg) vào tháng Sáu đã giảm xuống còn 4,10 USD/bushel, sau khi nông dân Mỹ đạt năng suất kỷ lục.

Số liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy, những người nông dân nước này đã thu hoạch được 7,83 tỷ bushel ngô và dự trữ trong trang trại của họ tính đến ngày 1/12. Đây là mức cao nhất từ trước đến thời điểm đó và tăng 16% so với mức thấp nhất trong 9 năm vào tháng 12/2022. Trên thế giới, lượng hàng dự trữ sẽ đạt mức cao nhất trong 5 năm vào tháng Chín, sau khi đã tính toàn bộ lượng ngô dùng để chăn nuôi gia súc, sản xuất nhiên liệu sinh học và các mục đích khác.

Trong một báo cáo hồi tháng Giêng các nhà kinh tế của Đại học Illinois cho biết, ở miền nam bang Illinois, vùng sản xuất ngô lớn thứ hai của nước Mỹ, người nông dân có thể thua lỗ tới 160 USD/ha khi trồng ngô trong năm nay dựa trên giá ngô và chi phí sản xuất. Hai năm trước, họ đã đạt lợi nhuận khoảng 340 USD/mẫu Anh (1 mẫu Anh tương đương 0,4 ha).

Dự báo ban đầu cho thấy nông dân Mỹ có khả năng giảm trồng ngô và tập trung vào đậu tương trong năm 2024. Họ có thể gặp khó khăn để thu được lợi nhuận với một trong hai loại cây trồng này.

Xuất khẩu nông sản và các sản phẩm liên quan của Mỹ đã giảm 10% về giá trị trong năm 2023 xuống mức thấp nhất trong 3 năm do nguồn cung dồi dào từ Brazil và các nơi khác ảnh hưởng tiêu cực phần nào tới doanh thu xuất khẩu của Mỹ.

Ông Trump làm thế giới "chao đảo" dù chưa vào Nhà Trắng

Các nhà lãnh đạo trên thế giới đang bắt đầu nhận ra và phản ứng trước thực tế là cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump thực sự có thể trở lại Nhà Trắng sau một năm nữa.

Đối diện viễn cảnh chính quyền Mỹ trong năm 2025 sẽ khác biệt gần như hoàn toàn so với chính quyền hiện tại, một số quốc gia đang ngày càng cân nhắc cái có thể được gọi là "tận dụng lợi thế Trump" trong tính toán chính sách đối nội và đối ngoại.

Theo đó, những nước này sẽ trì hoãn đưa ra quyết định với kỳ vọng rằng họ có thể đạt thỏa thuận tốt hơn với Washington vào một năm sau, khi ông Trump làm tổng thống.

Ngược lại, một số quốc gia khác đang bắt đầu tìm kiếm biện pháp "phòng ngừa rủi ro Trump", thông qua việc phân tích những điều bất lợi với họ nếu vị cựu Tổng thống tái xuất để có sự chuẩn bị phù hợp.

Chiến sự Ukraine và an ninh châu Âu

Theo bài viết trên Foreign Affairs của Graham Allison, Giáo sư về chính phủ thuộc Trường Harvard Kennedy, những tính toán của Nga trong "chiến dịch quân sự đặc biệt" Ukraine là một trong những ví dụ về "tận dụng lợi thế Trump".

Tín hiệu về việc Nga sẵn sàng chấm dứt chiến sự bắt đầu xuất hiện trong những tháng gần đây, như khi Tổng thống Vladimir Putin kêu gọi đàm phán trong khi trả lời phỏng vấn nhà báo Mỹ Tucker Carlson. Nhưng vì yếu tố "lợi thế Trump", chiến sự nhiều khả năng vẫn sẽ kéo dài cho tới năm sau.

Ông Allison chỉ ra, phía Nga ắt hẳn biết rõ lời hứa "chấm dứt giao tranh trong một ngày" của ông Trump: "Tôi sẽ nói với Zelensky rằng sẽ không còn viện trợ. Ông phải đạt thỏa thuận". Trước khả năng ông Trump sẽ đưa ra các điều khoản có lợi cho Nga hơn nhiều so với bất cứ điều gì mà ông Biden hoặc ông Zelensky có thể đồng ý lúc này, Moscow nhiều khả năng sẽ chờ đợi.

Ngược lại, các đồng minh của Ukraine ở châu Âu phải cân nhắc biện pháp "phòng ngừa rủi ro Trump".

Khi chiến sự Ukraine phá vỡ hy vọng của châu Âu về một thế giới mà xung đột vũ trang đã trở thành quá khứ, NATO đã được tiếp thêm sức sống mới. Đồng thời, cam kết phòng vệ tập thể - một trụ cột của liên minh này - cũng nhận được sự tập trung lớn hơn. Nhưng châu Âu dường như đang ngày càng lo lắng trước khả năng ông Trump có thể chiến thắng.

Ông Trump không phải là nhà lãnh đạo Mỹ đầu tiên đặt câu hỏi tại sao châu Âu - có dân số gấp 3 lần Nga và quy mô GDP gấp hơn 9 lần - phải phụ thuộc vào Washington trong vấn đề quốc phòng. Khi trả lời phỏng vấn Atlantic vào năm 2016, ông Barack Obama cũng từng chỉ trích châu Âu vì là "những người ăn không".

Nhưng ông Trump thậm chí đi xa hơn, dù phát biểu của ông có thể là một trong những cách để buộc các nước châu Âu phải đáp ứng cam kết chi 2% GDP cho quốc phòng.

Khi còn là tổng thống, ông từng có cuộc trao đổi nghiêm túc về việc rút hoàn toàn khỏi NATO vào năm 2019, theo cựu cố vấn an ninh quốc gia của ông, John Bolton. Gần đây, ông tiết lộ mình từng cảnh báo không bảo vệ các nước NATO không hoàn thành nghĩa vụ tài chính với khối. Trang web tranh cử của ông Trump hiện cam kết "đánh giá lại về cơ bản mục đích và sứ mệnh của NATO".

Vì thế, khi tính toán sẽ gửi bao nhiêu xe tăng hoặc đạn pháo tới Ukraine, một số nước châu Âu lúc này sẽ tự hỏi liệu họ có cần những vũ khí đó cho công tác quốc phòng của chính mình nếu ông Trump đắc cử vào tháng 11 hay không, theo ông Allison.

Trật tự thương mại thế giới mới

Nhiệm kỳ thứ hai của ông Trump hứa hẹn một trật tự thương mại thế giới mới.

Vào ngày đầu tiên nhậm chức năm 2017, ông Trump đã rút khỏi Hiệp định Thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Những tuần tiếp theo đánh dấu sự kết thúc của các cuộc thảo luận nhằm tạo ra hiệp định tương tự ở châu Âu cũng như các hiệp định thương mại tự do khác.

Ông Trump cũng áp đặt mức thuế 25% đối với hàng nhập khẩu trị giá 300 tỷ USD của Trung Quốc, mức thuế mà ông Biden phần lớn vẫn giữ nguyên.

Nếu đắc cử nhiệm kỳ thứ 2, ông Trump có thể táo bạo hơn, như nhà đàm phán thương mại của Mỹ dưới thời ông Trump, ông Robert Lighthizer, đã đánh giá trong cuốn sách xuất bản gần đây của ông.

Trong chiến dịch tranh cử hiện tại, ông Trump hứa sẽ áp mức thuế 10% đối với hàng nhập khẩu từ mọi quốc gia và sẽ "ăn miếng trả miếng" với các quốc gia đánh thuế cao hơn đối với hàng hóa của Mỹ. Ông cũng khẳng định Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF) - sáng kiến hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương do chính quyền ông Biden khởi xướng - sẽ "chết ngay từ ngày đầu tiên".

Theo tiết lộ của ông Lighthizer, đối với Trung Quốc, ông Trump có thể hủy bỏ quy chế "quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn" mà Trung Quốc đã được cấp vào năm 2000 trước khi nước này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Và mục tiêu của ông Trump sẽ là "loại bỏ sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực quan trọng", bao gồm điện tử, thép và dược phẩm.

Vì thương mại là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu, phần lớn các nhà lãnh đạo thế giới có thể cho rằng, khả năng các sáng kiến của Mỹ có thể phá vỡ trật tự thương mại dựa trên luật lệ là điều gần như không thể tưởng tượng được.

Nhưng ắt hẳn, một số nước đang xem xét những kịch bản mà trong đó, Mỹ sẽ thành công trong việc tách mình ra khỏi trật tự thương mại toàn cầu, thay vì thành công buộc các nước khác tách khỏi Trung Quốc, theo ông Allison.

"Trong lịch sử nước Mỹ, đã có những thời đại mà sự khác biệt giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa về các vấn đề chính sách đối ngoại lớn là rất khiêm tốn", ông Graham nói. "Tuy nhiên, thập kỷ này không phải là một trong số đó".

Bầu cử tổng thống Mỹ thời ít tiền

Cả ông Biden lẫn ông Trump đều không thể vung tiền vận động tranh cử như trước đây, khi nguồn quyên góp kém hơn nhiều so với những mùa bầu cử trước.

Nền "kinh tế bầu cử" Mỹ dường như đang đi vào chu kỳ suy thoái trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm nay. Giới quan sát từ năm 2023 đã cảnh báo hiện tượng các nhà tài trợ lẫn cử tri Mỹ dần mệt mỏi với guồng quay chính trị trong những năm qua nên sẽ giảm mức đóng góp tài chính cho các ứng viên.

Chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Joe Biden bước vào tháng hai với khoảng 56 triệu USD tiền mặt trong quỹ, còn cựu tổng thống Donald Trump có 30,5 triệu USD. Tài khoản tranh cử của cả hai người cộng lại vẫn chưa bằng số tiền mặt mà chiến dịch của ông Trump sở hữu trong cùng giai đoạn ở mùa bầu cử năm 2020 là 92,6 triệu USD.

Các ứng viên vẫn tiếp tục kêu gọi được tài trợ từ người ủng hộ, trong đó ông Biden đã vận động được thêm 15,7 triệu USD trong tháng một. Tuy nhiên, cả hai ứng viên đã không huy động được những khoản đóng góp khổng lồ như trong các mùa bầu cử tổng thống trước đây, thời điểm quyên góp trực tuyến nở rộ.

Đến giai đoạn này của mùa bầu cử năm 2020, ông Trump khi đó là tổng thống Mỹ đã quyên góp được 229 triệu USD cho chiến dịch, trong khi Tổng thống Biden tới nay mới quyên được khoảng 70 triệu USD. Ông Trump vào tháng 2/2020 đã chi gần 154 triệu USD, còn ông Biden hiện mới chi khoảng 62,8 triệu USD.

Ở cuộc bầu cử năm 2012, tổng thống Barack Obama bước vào giai đoạn bầu cử sơ bộ với thành tích vận động tài trợ khoảng 151,3 triệu USD và chi ra khoảng 144,1 triệu USD. Số tiền mặt trong ngân quỹ tái tranh cử của ông Obama khi đó được ước tính vào khoảng 76 triệu USD, chưa điều chỉnh theo mức lạm phát.

Xu hướng này cho thấy các ứng viên tổng thống Mỹ đang nhận được nhiều tiền quyên góp hơn, khi các mạnh thường quân đang trở nên mệt mỏi, đặc biệt là những nhà tài trợ nhỏ từng được coi là động lực tài chính cho cả Trump và Biden năm 2020.

Trong khi túi tiền trở nên eo hẹp, cả hai ứng viên dẫn đầu cuộc bầu cử năm nay đều đang phải tiêu tốn khá nhiều cho những vấn đề nằm ngoài mục tiêu vận động cử tri.

Chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Biden phải dành tiền cho các quảng cáo để cải thiện mức tín nhiệm, giữa cuộc khủng hoảng di cư ở biên giới phía nam và tình hình nền kinh tế, thay vì những nội dung thách thức đối thủ.

Trong khi đó, ông Trump phải dùng tiền vận động tranh cử để trang trải chi phí pháp lý trong hàng loạt vụ kiện dân sự và truy tố. Giải cứu Nước Mỹ, Ủy ban Hành động Chính trị (PAC) của ông Trump, trong tháng một đã chi 4,8 triệu USD cho chi phí pháp lý cho cựu tổng thống 77 tuổi. Xuyên suốt năm 2023, ông đã sử dụng khoảng 50 triệu USD tiền tài trợ tranh cử để trả cho luật sư và các chi phí pháp lý khác.

Với bất kỳ ứng viên tổng thống nào khác, số tiền khổng lồ này sẽ tạo tác động đáng kể nếu được rót vào quảng cáo truyền hình. Điều khác biệt ở Trump là ông giữ ưu thế vượt trội ở bầu cử sơ bộ đảng Cộng hòa, nên chưa cần chi quá nhiều cho quảng bá hình ảnh, dù ban đầu phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong đảng.

Tuy nhiên, vòng bầu cử toàn quốc sẽ là câu chuyện khác. Ứng viên hai đảng Dân chủ và Cộng hòa sẽ cạnh tranh quyết liệt để giành phiếu từ cử tri thuộc đảng mình lẫn những người trung lập. Đây là thời điểm quảng cáo chính trị trên truyền hình phát huy hiệu quả, có thể tạo nên khác biệt đáng kể khi nhanh chóng truyền tải thông điệp tranh cử của mỗi ứng viên đến nhóm cử tri chiến lược.

Giới quan sát cho rằng với nguồn tiền vận động eo hẹp hiện nay, ông Trump và ông Biden sẽ phải tính toán kỹ càng từng khoản chi, thắt chặt hầu bao cho đến khi bước vào cuộc đua song mã.

Thậm chí, các chiến dịch có thể rơi vào cảnh thiếu tiền mặt để chi cho quảng bá và vận hành trong nửa cuối năm nay, buộc các ứng viên phải tìm cách lôi kéo thêm hỗ trợ, tính toán địa điểm và thời điểm phù hợp để bung sức, thay vì "vung tiền" quảng bá như trước đây.

"Câu chuyện tiền nong sẽ trở thành rắc rối cho mọi ứng viên. Mỗi người phải tự tìm cách vượt qua", Byron Donalds, hạ nghị sĩ Cộng hòa đại diện bang Florida, nhận định.

Tổng thống Joe Biden và Ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ (DNC) đã thử nghiệm rót hơn 20 triệu USD cho quảng cáo trong vòng 6 tháng qua, chủ yếu tại những bang chiến trường. Tuy nhiên, mức tín nhiệm của tổng thống Mỹ vẫn không cải thiện nhiều, thậm chí một số khảo sát còn cho thấy tỷ lệ ủng hộ ở một số bang chiến trường dành cho ông Biden sụt giảm so với giai đoạn chưa chạy quảng cáo.

Hai ứng viên trong giai đoạn tiếp theo của cuộc bầu cử có thể sẽ phải thu hẹp danh sách bang chiến trường cần tập trung nguồn lực, thay vì tìm cách "đổi màu" những bang vốn là thành trì của đối phương hay lôi kéo những nhóm cử tri mới, theo nhà phân tích bầu cử Steven Shepard của Politico.

Nỗi mệt mỏi của cử tri Mỹ về nền kinh tế lẫn tình trạng chia rẽ chính trị của đất nước có thể là hai nguyên nhân chủ đạo khiến dòng tiền vận động bầu cử năm nay bị bóp nghẹt đáng kể.

Trong vài cuộc bầu cử tổng thống vừa qua, nhờ nền tảng công nghệ quyên góp trực tuyến, nhiều chiến dịch tranh cử đã "góp gió thành bão" nhờ các khoản đóng góp vừa và nhỏ từ cử tri đơn lẻ.

Nhưng hoạt động vận động gây quỹ những năm qua trở nên quyết liệt và tự động hóa cao hơn, khiến cử tri ngán ngẩm vì liên tục phải nhận những cuộc gọi, email hay thư kêu gọi quyên góp và dần trở nên thờ ơ với thông điệp vận động.

"Có nhiều người trong quận của tôi than phiền rằng họ nhận quá nhiều email và tin nhắn vận động quyên góp", Veronica Escobar, hạ nghị sĩ Dân chủ đại diện bang Texas, tiết lộ vào tháng 7/2023.

Escobar cho rằng những chiến thuật vận động tài chính quyết liệt trên mức cần thiết đối với cử tri nhỏ lẻ nhằm tận thu quyên góp đang phản tác dụng. Dù vậy, bà kỳ vọng rằng các cử tri sẽ thay đổi thái độ khi cuộc đua Nhà Trắng bước vào giai đoạn quyết định, đồng thời các ứng viên "bắt trúng mạch" quan tâm của cử tri.

Trong khi đó, giới chính trị gia Cộng hòa cho rằng lạm phát là nguyên nhân lớn khiến cử tri quyên góp ít hơn trong mùa bầu cử lần này.

Nhóm cử tri hưu trí đang chịu ảnh hưởng lớn bởi nền kinh tế biến động, khi vật giá leo thang nhưng phúc lợi không thay đổi và họ khó kiếm được thu nhập bổ sung.

Kenneth Pennington, đồng sáng lập tổ chức Middle Seat, hãng tư vấn chính trị cho đảng Dân chủ, đã phát hiện xu hướng cử tri đơn lẻ quyên góp ít hơn từ cuộc bầu cử giữa kỳ vào năm 2022.

"Cử tri nhìn thấy rõ viễn cảnh trận tái đấu Trump - Biden và dường như họ không mấy hào hứng với điều này. Sự nhiệt thành của người Mỹ với cuộc bầu cử đã giảm", Eric Wilson, một cố vấn chiến lược kỹ thuật số của đảng Cộng hòa, cảnh báo.

Mỹ 'quay xe', chỉ trích Israel về vấn đề Bờ Tây

Ngoại trưởng Mỹ cho rằng việc Israel mở rộng các khu định cư ở Bờ Tây là không phù hợp luật pháp quốc tế và làm suy yếu an ninh của chính nước này.

Ngày 23-2 (giờ địa phương), tại buổi họp báo ở Buenos Aires (thủ đô Argentina), Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nêu rõ quan điểm của Washington với kế hoạch mở rộng khu định cư của Israel tại Bờ Tây.

Báo Washington Post dẫn lời ông Blinken: "Chính quyền chúng tôi vẫn luôn phản đối kịch liệt việc mở rộng khu định cư [ở Bờ Tây]. Theo quan điểm của chúng tôi, điều này không những không củng cố mà còn làm suy yếu an ninh của Israel".

Ngoại trưởng Mỹ không quên nhấn mạnh việc làm trên của Tel Aviv là "không phù hợp luật pháp quốc tế".

Tuyên bố trên được đưa ra ngay sau khi có thông tin Chính phủ Israel do Thủ tướng Benjamin Netanyahu lãnh đạo đang chuẩn bị đẩy mạnh việc xây dựng các khu định cư ở vùng đất trên.

Tuyên bố của ông Blinken đảo ngược hoàn toàn quan điểm của chính quyền cựu tổng thống Donald Trump về vấn đề trên, đồng thời khôi phục quan điểm từng được các đời tổng thống Mỹ trước ông Trump duy trì.

Năm 2019, ngoại trưởng Mỹ khi đó là ông Mike Pompeo tuyên bố Mỹ không xem các khu định cư của người Israel ở Bờ Tây là vi phạm luật pháp quốc tế.

Trước đó, năm 1978, Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời cựu tổng thống Jimmy Carter đưa ý kiến về các khu định cư người Israel ở Bờ Tây: "Phần lãnh thổ do một bên chiếm đóng kiểm soát nhờ việc tham chiến không trở thành lãnh thổ có chủ quyền của bên đó".

Bờ Tây được cộng đồng quốc tế công nhận là phần lãnh thổ của người Palestine và đang được Chính quyền Palestine (PA) quản lý với nhiều mức độ khác nhau.

Tuy nhiên, hàng chục năm qua, người Israel vẫn thường xuyên di cư đến vùng đất này, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Palestine vốn đã sinh sống ở đây từ lâu.

Do đó, các khu định cư của người Israel ở những khu vực này thường được xem là phi pháp.

Mỹ ngày một bất mãn với Israel?

Theo báo Washington Post, giới chức Mỹ khẳng định Washington đã bàn luận kỹ trước khi quyết định nêu quan điểm về Bờ Tây vào lúc này.

Mục đích của động thái này là thể hiện sự bất mãn ngày một tăng của chính quyền Tổng thống Joe Biden với những hành động của Tel Aviv ở Dải Gaza và Bờ Tây.

Trước đó, hồi tháng 12-2023, Washington tuyên bố sẽ không cấp thị thực cho những người định cư Israel bị cho là đã sử dụng bạo lực với người Palestine tại Bờ Tây.

Nguồn: Báo Tin Tức; Dân Trí; Vnexpress; Tuổi Trẻ

Xem thêm:
Về trang trước

Chủ đề:

Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá

Việt Nam

Người Việt hải ngoại

EU

Thế giới

Lên đầu trang