.png)
KHÔNG THỂ QUÊN
Dù rất muốn quên đi không muốn nhớ
Bóng người ta cứ ở mãi không đi
Vẫn biết rằng nhung nhớ có ích gì
Tình chia cách nhớ làm chi nhớ mãi.
Trong đơn độc bao ưu phiền khắc khoải
Bóng người ta ngực trái chưa từng rời
Dù từ lâu đã cách trở đôi nơi
Vẫn văng văng nghe tiếng cười ngọt lịm.
Vẫn đâu đó đôi môi hồng chúm chím
Hoa em yêu màu đỏ tím hoa mua
Áng chiều về vang vọng tiếng đò đưa
Tim lại nhói chuyện xưa quay trở lại.
Chẳng thể tin thành người Dưng mãi mãi
Lòng bồn chồn hoang hoải nhớ thương thương
Thật khó tả khi tình cũ còn vương
Chẳng hiện hữu vẫn cản đường cản bước.
Một nỗi nhớ chẳng thể nào quên được
Chẳng ai xui bỗng sực nhớ người yêu
Rất đời thường mà cứ tưởng cao siêu
Nghe Xuân Diệu mỗi buổi chiều ra hóng.
Nguồn: FB Ngan NguyenVan
THẦY HÍT
.png)
Ngày xưa ở làng nọ
Có một đôi vợ chồng.
Vợ thì rất tần tảo,
Mà chồng thì ngồi không.
Anh chàng ngồi không ấy
Bị làng xóm cười chê.
Cô vợ khuyên chịu khó
Đi học lấy một nghề.
Anh chàng đành khăn gói,
Đi gần rồi đi xa
Mà vẫn không học được,
Đành phải quay về nhà.
Xấu hổ, lo vợ mắng,
Anh chàng chưa dám vào.
Đứng nấp sau tấm vách,
Xem binh tình thế nào.
Một lát sau, cô vợ
Đi chợ về, trong tay
Xách năm chiếc bánh lá,
Rồi bảo con thế này:
“Ba đứa ăn ba chiếc.
Còn hai chiếc bánh kia
Nhớ cất trong vại gạo,
Để phần bố lúc về.”
Anh chồng nghe, mừng quá,
Lén ra ngõ, và rồi
Đi vào nhà, oai vệ,
Với nụ cười trên môi.
“Học được nghề rồi chứ?”
Cô vợ hỏi. “Tất nhiên”.
“Nghề gì?” “Nghề Thầy Hít.
Giấu đâu là biết liền!”
“Vậy thử hít mà biết
Ở đâu trong nhà này
Hai chiếc bánh thiếp giấu,
Phần của chàng hôm nay”.
Anh chồng nhăn mũi hít,
Trịnh trọng và rất lâu:
“Hãy đi vào vại gạo
Lấy bánh ra đây, mau!”
Cô vợ vui, vui lắm,
Thấy chồng học được nghề.
Liền chạy đi khắp tổng,
Gặp người nào cũng khoe.
Vừa hay, bà hàng xóm
Mất ổ lợn sáu con.
Liền nhờ Thầy Hít giúp,
Hứa không quên trả ơn.
May sáng sớm hôm ấy,
Khi đi ỉa ngoài đồng,
Anh chàng thấy ổ lợn
Ai đó giấu bên sông.
Vậy là lại trót lọt.
Bà kia cho anh chàng
Ba con lợn đã hứa.
Kiếm ăn thật dễ dàng.
Cô vợ liền vội vã
Khoe với bố mẹ mình
Về anh chồng Thầy Hít,
Tài giỏi và thông minh.
Bố cô không tin lắm:
“Thử bảo nó sang đây.
Ta đang có hũ bạc
Chôn kỹ dưới gốc cây.
Gốc cây táo bên giếng.
Nếu chồng con tìm ra,
Ta sẽ cho một nửa,
Về mà xây cái nhà!”
Khốn nỗi, ông không biết
Rằng Thầy Hít, rể ông,
Đã lén đi theo vợ
Nên biết tỏng tòng tong.
Thầy vội vã quay lại,
Nằm chờ sẵn ở nhà.
Còn ra chiều miễn cưỡng
Phải “đi thăm ông bà”.
Thầy đoán đúng và lấy
Nửa hũ bạc ngon lành.
Tiếng tăm càng lừng lẫy.
Bay đến tận kinh thành.
Mà kinh thành lúc ấy
Đang nhao nhác, bàng hoàng,
Vì đôi rùa bị mất.
Một bạc và một vàng.
Đó là món bảo vật
Vua thiên triều Trung Hoa
Tặng cho vua Đại Việt.
Nhất định phải tìm ra!
Vua liền sai sứ giả
Đem tờ chiếu của mình
Tìm đến nhà Thầy Hít
Để rước thầy về kinh.
Thầy Hít nằm trên kiệu
Lo có thể lần này
Sẽ bị vua trị tội,
Ngựa xéo hoặc voi dày.
Lo đến mức sợ quá,
Khi đi ngang dòng sông,
Thầy nhảy ùm xuống nước,
Thà chết trước cho xong.
Hai người lính khênh kiệu
Vớt thầy lên, vỗ về.
Thầy mắng: “Bọn mày láo,
Ta xuống hỏi Thủy Tề
Để xin ngài cho biết
Ai lấy cắp đôi rùa.
Ta sẽ bắt bọn chúng
Trả lại cho nhà vua”.
Nói vậy nhưng trong bụng,
Sợ đến co rúm người.
Thầy vừa nằm trên kiệu,
Vừa lẩm bẩm thành lời:
“Bụng làm thì dạ chịu,
Giờ biết trách ai đây?
Chắc chắn sẽ chết thảm.
Khó thoát được vụ này”.
Hai tên lính khênh kiệu
Nghe thế, lén thở dài.
Một đứa tên là Bụng.
Dạ là đứa thứ hai.
Chính chúng đã câu kết
Với thủ kho nhà vua
Ăn cắp và đang giấu
Vật bảo bối, đôi rùa.
Lúc nãy nghe Thầy nói
Vừa gặp Thủy Tề xong.
Giờ nhắc tên Bụng, Dạ.
Tức thầy đã biết tong.
Hai đứa liền cuống quýt
Thú tội hết với thầy.
Rồi khai đôi rùa ấy
Giấu chỗ này, chỗ này.
Chúng xin thầy lượng xá
Không nói với nhà vua
Rằng chúng đã trót dại
Dám ăn trộm đôi rùa.
Thầy Hít nghe, đồng ý,
Giục nhanh chóng về kinh.
Là nơi Thầy được thưởng
Nhờ chiếc mũi tài tình.
Chẳng bao lâu sau đó
Có sứ thần Trung Hoa
Đến xin Thầy giúp đỡ,
Mang theo rất nhiều quà.
Số là vua bên ấy
Cũng gặp chuyện không may.
Cả nước Tàu bất lực,
Nên phải sang nhờ Thầy.
Thầy Hít nghe phát hoảng.
Giờ thì chết đến nơi.
Không người nào có thể
Gặp vận may suốt đời.
Sợ quá, thầy chép miệng:
“Thà chết ở đất mình”.
Bèn ra bờ sông vắng,
Nhảy xuống nước trẫm mình.
May có người nhìn thấy,
Nhảy xuống, vớt thầy lên.
Không hiểu sao chiếc mũi
Bị sứt mất một bên.
Đau thì đau, Thầy Hít
Mừng, bảo sứ Trung Hoa:
“Tôi chỉ nhờ chiếc mũi
Mà giúp được người ta.
Nay, thật tiếc, nó sứt,
Thì coi như mất nghề”.
Quan sứ nghe, có lý,
Đành quay ngựa trở về.
Nguồn: FB Thái Bá Tân
PHỞ RỤNG RỜI…
.png)
Trên đường đi từ Sài Gòn về Bình Phước, xe máy của tôi bất ngờ bị xì lốp. May quá, bên đường có cái vỏ xe treo nơi gốc cây xanh che mát cho vỉa hè. Tôi vội dắt xe vào sửa. Xe bị cán đinh!
Bác sửa xe mặt đen nhẻm, gầy gò, miệng ngậm điếu Hero rít theo thói quen. Bác đang thay ruột xe cho một anh thanh niên khoảng 30 tuổi , trông vẻ từng trải lắm. Bên cạnh xe anh ta là 3 can, mỗi can 20 lít nước thơm phức mùi phở bò. Chiếc xe wave cũ kỹ được gia cố hai bên hai khung sắt để hai can cho tiện, chắc là tay chở mướn chuyên nghiệp đây!
Tôi bắt chuyện:
- Nước gì mà thơm thế anh?
- À, nước phở đó. Tôi chở cho các tiệm phở ở đây.
- Nhà anh sản xuất à?
- Không, tôi chở mướn thôi. Công 5.000 một can. Hôm nay, bị lủng xe xem như mất hết 2 can
- Một ngày anh chở được khoảng bao nhiêu can?
- Cũng tuỳ, khoảng chừng 30 can - anh ta trả lời mệt mỏi.
- Ồ, nước phở đâu mà nhiều thế?
Anh ta nhìn tôi từ đầu đến chân, trông tôi có vẻ hiền lành nên anh có vẻ yên tâm:
- Ông chủ xưởng nước phở thu gom các loại xương về nấu thành nước phở rồi đi bỏ cho tiệm. Mỗi can 100.000đ. Chủ tiệm khỏi nấu nước súp, khoẻ re!
Nói tới đây, anh ta có điện thoại, dù không cố tình, tôi vẫn nghe loáng thoáng bà chủ bảo khi về ghé mua gói bột hủy hầm cầu!
Xe anh ta cũng vừa sửa xong, tôi giúp anh ta đưa mấy can nước lên xe. Chiếc xe lao đi.
Bác sửa xe hỏi tôi:
- Cháu biết họ dùng bột hủy hầm cầu để làm gì không?
Tôi ngờ ngợ có chuyện gì đó bèn thuận nước đẩy thuyền:
- Dạ, để làm chi vậy bác?
- Để nấu cho mau rục xương đó cháu, vả lại, khi dùng chất này, mấy thứ xương thu gom mốc meo cũng hết mùi hôi, nước trở nên thơm phức! - bác sửa xe chua chát.
Tôi nghe mà rụng rời chân tay. Mới hồi nãy, tôi ghé tiệm phở cách đó chừng 5 cây số, húp sì sụp cho hết sạch một tô phở ngon lành! Trời! Sao người ta dã man vậy, vì lợi nhuận mà bất chấp thủ đoạn?!
Tôi cảm giác buồn nôn không thể tả,... cũng may đây là đoạn vỉa hè thưa nhà,... tôi lủi vô một lô đất người ta chưa xây dựng rồi cho tô phở ra! Bác sửa xe tưởng tôi trúng gió, đưa tôi chai dầu, cho nằm trên ghế bố đợi vá xe.
Tôi ở đảo, ít được ăn phở ngon nên cứ mỗi lần về đất liền, kiểu gì thì kiểu, cứ ghé tiệm phở làm một tô đặc biệt cho thỏa. Lần này thì tởm rồi!
Xe cũng sửa xong, trước khi đi, tôi còn ráng hỏi:
- Bác ơi, mỗi lần nấu họ cho bao nhiêu thuốc vậy?
- Cháu đi mà hỏi họ, bác chỉ biết có vậy thôi!
Nguồn: FB 8 SÀI GÒN
Đức Việt Online
Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá