.jpg)
ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ ĐẶC THÙ CHO ĐƯỜNG SẮT TỐC ĐỘ CAO BẮC - NAM: VAY VỐN LÃI SUẤT 0%
Bộ Xây dựng đề xuất loạt cơ chế, chính sách đặc thù cho đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Trường hợp đầu tư theo hình thức đầu tư kinh doanh, Nhà nước cho vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư, lãi suất tối thiểu bằng 0%.
Bộ Xây dựng đã hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Hồ sơ dự thảo đã được gửi Bộ Tư pháp để thẩm định.
Được vay vốn với lãi suất 0% trong thời hạn 30 năm
Điểm đáng chú ý, Bộ Xây dựng đề xuất loạt cơ chế liên quan đến chính sách tài chính, ưu đãi thuế, các quy định riêng cho phương thức đối tác công tư.
Cụ thể, về hỗ trợ tài chính trong trường hợp đầu tư theo hình thức đầu tư kinh doanh, Nhà nước cho vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư dự án được phê duyệt (không bao gồm chi phí dự phòng), với lãi suất tối thiểu bằng 0%, thời hạn vay tối đa 30 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên.
Nhà đầu tư phải hoàn trả toàn bộ khoản vay trong vòng 30 năm kể từ ngày giải ngân đầu tiên.
Trường hợp đầu tư theo phương thức đối tác công tư, tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia không quá 80% tổng mức đầu tư dự án được phê duyệt.
Các ngân hàng thương mại trong nước được miễn áp dụng quy định về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với khoản vay của nhà đầu tư. Khoản vay này cũng không tính vào tổng dư nợ cấp tín dụng của ngân hàng đối với nhà đầu tư theo quy định.
Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đường sắt tạo tài sản cố định và các hàng hóa, linh phụ kiện, vật tư, phụ tùng nhập khẩu phục vụ đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, bảo trì, khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt và các vật tư, thiết bị khác phục vụ trực tiếp cho dự án. Điều kiện là các mặt hàng này trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án.
Dự thảo cũng nêu rõ các quy định riêng cho phương thức đối tác công tư. Theo đó, trong 3 năm đầu sau thời điểm vận hành, kinh doanh, cho phép áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn.
Chính phủ ưu tiên bố trí từ nguồn tăng thu hàng năm, dự toán chi còn lại của ngân sách Trung ương, hoặc nguồn vốn từ kế hoạch đầu tư hàng năm để chi trả phần chênh lệch giảm doanh thu. Việc chia sẻ phần giảm doanh thu các năm còn lại sau 3 năm đầu tiên thực hiện theo quy định pháp luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Thời gian hoàn vốn cho dự án không quá 70 năm.
Nhà đầu tư bị đình chỉ, chấm dứt hoạt động không được bồi hoàn
Về phương án thu xếp vốn, giải ngân, theo dự thảo, ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư có trách nhiệm xây dựng tiến độ thực hiện dự án, kế hoạch huy động và giải ngân vốn; gửi cơ quan cấp giấy đăng ký đầu tư xem xét, chấp thuận trước khi khởi công.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện giải ngân với tỷ lệ vốn nhà đầu tư huy động theo quy định của giấy đăng ký đầu tư, nhưng bảo đảm các kỳ giải ngân không thấp hơn 20% so với kỳ giải ngân cho đến khi hết phần vốn góp nhà đầu tư.
Trường hợp nhà đầu tư không đáp ứng tiến độ huy động vốn theo cam kết, hoặc sử dụng vốn vay Nhà nước sai mục đích, không khắc phục kịp thời theo yêu cầu, cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có quyền đơn phương thu hồi; đồng thời, nhà đầu tư phải bồi thường mọi thiệt hại, tổn thất, phí tổn.
Nhà đầu tư bị đình chỉ hoặc chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh và không được bồi hoàn trong trường hợp gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, khai thác không bảo đảm chất lượng dẫn đến xảy ra sự cố nghiêm trọng, không thực hiện bảo đảm theo quy định.
Nhà đầu tư phải có bảo đảm thực hiện dự án đối với khoản vay ngân sách Nhà nước. Trường hợp sau khi kết thúc xây dựng dự án, tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ dự án. Nhà đầu tư không được cầm cố, thế chấp các tài sản thuộc dự án để huy động vốn thực hiện các dự án khác.
Trong quá trình thực hiện dự án, nhà đầu tư không được điều chỉnh mục tiêu đầu tư, quy mô chủ yếu của dự án về khổ đường, tốc độ thiết kế, tải trọng.
Cũng theo dự thảo, trường hợp dự án áp dụng theo hình thức đầu tư kinh doanh hoặc đầu tư theo phương thức đối tác công tư, nhà đầu tư phải ưu tiên sử dụng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất, cung cấp; yêu cầu đối tác nước ngoài chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho đối tác Việt Nam để làm chủ công tác quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì; từng bước làm chủ công nghệ.
BÀI TOÁN KHÓ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG VÌ GIÁ ĐẤT NÔNG NGHIỆP DỰ KIẾN CAO NHẤT 290.000 ĐỒNG/M2
Theo đề xuất, giá đất nông nghiệp áp dụng tại Hà Nội năm 2026 cao nhất là 290.000 đồng/m2. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, giá đất nông nghiệp như đề xuất thì việc giải phóng mặt bằng (GPMB) các dự án trên địa bàn thành phố sẽ gặp khó khăn.
Theo dự thảo bảng giá đất lần đầu để công bố và áp dụng từ 1/1/2026, Sở NN&MT Hà Nội đề xuất giá đất được chia thành 17 khu vực sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, thay vì tính theo các quận, huyện như trước đây.
Đối với giá đất nông nghiệp, Sở NN&MT đề xuất tại các phường ở khu trung tâm và lân cận Vành đai 3 (khu vực từ 1 đến 6) giữ nguyên hiện hành là 290.000 đồng/m2.
Các xã còn lại có mức từ 192.000 đồng đến 270.000 đồng/m2, riêng đất rừng từ 43.000 đồng đến 86.000 đồng/m2.
Nhiều ý kiến cho rằng, giá đất nông nghiệp như đề xuất là chưa hợp lý, ảnh hưởng đến người bị thu hồi đất.
Ông Nguyễn Văn Tình (trú tại xã Thiên Lộc, Hà Nội) cho rằng, giá đất nông nghiệp như đề xuất là rất thấp. Bởi với nông dân, đất đai là tư liệu sản xuất , nếu bị thu hồi không chỉ ảnh hưởng đến hiện tại mà còn cả thế hệ tương lai. Như gia đình ông, trước đây có 5 sào đất nông nghiệp, nhưng vài năm trước đã bị thu hồi mất hơn 2 sào. Hiện tại, gia đình sản xuất rau trên diện tích còn lại, với thu nhập khoảng 70 triệu đồng/sào/năm, tạm đủ lo sinh hoạt cho gia đình.
Tuy nhiên, dự kiến trong năm tới địa phương sẽ thu hồi hết diện tích đất còn lại của gia đình ông để thực hiện dự án. Khi đó, gia đình chưa biết sẽ mưu sinh ra sao.
Ở thửa đất bên cạnh ông Nguyễn Văn Thanh cũng đang chăm sóc cho lứa rau cải. Ông cho biết, sau mưa lũ gia đình nhanh chóng làm đất, gieo hạt, đến nay lứa rau sắp được thu hoạch.
Dù vậy, ông Thanh tỏ ra lo lắng bởi chỉ ít nữa hơn 2 sào đất còn lại của gia đình sẽ bị thu hồi. Ông bảo, gia đình đồng thuận với chủ trương thu hồi đất để triển khai các dự án dân sinh, nhưng mong muốn giá đất nông nghiệp khi thu hồi sẽ cao hơn hiện tại. "Đất ở tại khu vực tôi đang sinh sống giá từ 50- 200 triệu đồng/m2 tùy theo từng vị trí. Trong khi, nếu đất nông nghiệp bị thu hồi chỉ 290.000 đồng/m2 thì sẽ khiến nông dân chạnh lòng", ông bày tỏ.
Giá đất nông nghiệp sẽ khó giải phóng mặt bằng?
Nhiều ý kiến cho rằng, giá đất nông nghiệp thấp sẽ gây khó cho công tác giải phóng mặt bằng.
Ông Tạ Vĩnh Khôi, Giám đốc Ban QLDA phường Hà Đông cho rằng, mức giá 290.000 đồng/m2 đất nông nghiệp tại các phường trung tâm là thấp, sẽ khó khăn cho công tác GPMB các dự án. Thành phố có thể điều chỉnh, xem xét tăng giá đất nông nghiệp, nhất là tại các phường trung tâm.
Trong khi đó, ông Nguyễn Đình Thuật, Giám đốc Trung tâm VHTT&TT xã Đại Thanh (Hà Nội) cho rằng, thành phố nên tách riêng giá đất nông nghiệp trồng lúa với đất trồng cây có hiệu quả kinh tế cao. Nếu không, sẽ khó cho công tác GPMB khi triển khai thu hồi đất thực hiện dự án.
Như xã Đại Thanh, hiện có gần 2.000 ha đất nông nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn người dân đang sản xuất rau màu, hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa rất nhiều. Đây cũng là "cần câu" mưu sinh của phần lớn người dân địa phương.
Dù vậy, hiện đang có thông tin một dự án đô thị sẽ được triển khai tại địa phương, dự kiến lấy gần hết đất nông nghiệp của xã. Nếu mức giá đất nông nghiệp tăng thêm, người dân sẽ có thêm khoản để chuyển đổi nghề hoặc đầu tư sản xuất, kinh doanh, ông Thuật chia sẻ.
Tuy nhiên, Công ty CP Thẩm định giá và thương mại VIC- đơn vị thẩm định giá đất để xây dựng bảng giá đất tại Hà Nội năm 2026 cho biết, Hà Nội đang thực hiện các dự án hạ tầng, giao thông cần thu hồi lượng lớn quỹ đất nông nghiệp. Nếu việc điều chỉnh giá đất loại này quá cao có thể gây khó khăn cho ngân sách và khiến bất động sản tăng giá, ảnh hưởng đến việc quản lý thị trường bất động sản.
GỠ KHÓ KHAN HIẾM VẬT LIỆU CHO DỰ ÁN TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA
.jpg)
Theo Bộ trưởng Bộ NN&MT, trong nhiều thời điểm, nguồn cung ứng nguyên vật liệu không đáp ứng được nhu cầu, thời gian cung cấp chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình trọng điểm.
Sáng 4/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản.
Phân quyền Chủ tịch tỉnh cấp phép khai thác khoáng sản nhóm III, IV
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường thông tin: Luật Địa chất và Khoáng sản 2010 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng trong quản lý Nhà nước và thực hiện các hoạt động về địa chất, khoáng sản. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn một số khó khăn vướng mắc chưa được giải quyết triệt để.
Thời gian vừa qua, trên địa bàn cả nước triển khai hàng loạt các dự án, công trình quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng rất lớn.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, trong nhiều thời điểm, nguồn cung ứng nguyên vật liệu không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến giá vật liệu xây dựng tăng cao, thời gian cung cấp chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công và làm tăng tổng mức đầu tư xây dựng công trình.
Nguyên nhân chủ yếu là do: nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng tăng đột biến, trong khi thủ tục về cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng để phục vụ cho các dự án, công trình chưa thực sự được thông thoáng, thuận lợi; công tác quản lý hoạt động khoáng sản ở một số địa phương còn nhiều tồn tại, bất cập; một số tổ chức, cá nhân không tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động khoáng sản; năng lực khai thác, vận chuyển của một số tổ chức khai thác khoáng sản, các nhà thầu được cấp mỏ còn hạn chế.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy định trên trong bối cảnh nhu cầu nguồn vật liệu xây dựng cung cấp cho các công trình, dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công trên địa bàn cả nước rất lớn là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khan hiếm và làm tăng giá vật liệu xây dựng tại nhiều địa phương trong cả nước.
Để khắc phục vướng mắc trên, dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản đã bổ sung quy định cho phép Chủ tịch UBND tỉnh được quyết định cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III, IV để cung cấp vật liệu xây dựng cho dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Bên cạnh đó là dự án đầu tư thực hiện theo phương thức đối tác công tư (PPP) theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư; các công trình, dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia; công trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư của chính quyền địa phương; công trình xây dựng khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách theo quy định của pháp luật về xây dựng; dự án, công trình phòng, chống thiên tai theo quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai.
Đối với khoáng sản nhóm III, Chủ tịch UBND tỉnh được cấp phép khai thác trực tiếp cho nhà thầu thi công hoặc chủ đầu tư để thực hiện dự án.
Trường hợp nhà thầu thi công, chủ đầu tư không đề nghị cấp phép thì được cấp cho tổ chức, cá nhân khác có đủ điều kiện theo quy định của Luật, khai thác chỉ để cung cấp vật liệu xây dựng cho các công trình, dự án trên với thủ tục cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản được thực hiện theo quy định.
Có cơ chế kiểm soát tránh tiêu cực
Trình bày tờ trình thẩm tra dự án Luật trên, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và Khoáng sản với những lý do như đã nêu trong tờ trình của Chính phủ.
Qua đó, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong quản lý nhà nước và tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành Luật, đặc biệt là các vấn đề về cơ chế cấp phép, khai thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, vật liệu san lấp phục vụ xây dựng các loại dự án, công trình quan trọng.
Bên cạnh đó, có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc thận trọng, đánh giá tác động của chính sách cho phép Chủ tịch UBND tỉnh cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III cho các công trình trên, bởi việc tháo gỡ "điểm nghẽn" để giải quyết triệt để tình trạng khó khăn, khan hiếm về khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, vật liệu san lấp phục vụ xây dựng các dự án, công trình đã được Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách đặc thù tại Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP của Chính phủ, phù hợp với bối cảnh tình hình bùng nổ nhu cầu vật liệu san lấp ở thời điểm nhất định.
"Chính sách này nếu kéo dài, cần đánh giá kỹ lưỡng để không gây hệ lụy do việc khai thác tài nguyên không theo quy hoạch, thiếu cơ chế kiểm soát, tác động tiêu cực đến cảnh quan môi trường", bà Hải nói.
Nguồn: Vietnamnet; CafeF; Người Đưa Tin
Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá