Mỹ: Bầu cử & giá vàng; So sánh chính sách Trump-Harris; Cuộc đua đốt tiền; 3 kịch bản bầu cử; Điều máy bay hạt nhân tới Trung Đông

BẦU CỬ MỸ & GIÁ VÀNG

Cuộc đua giành chức tổng thống Mỹ đang đến hồi kết - một sự kiện lớn có thể tác động trực tiếp đến giá vàng.

Nước Mỹ sắp bầu ra Tổng thống thứ 47 và đây là một cuộc đua rất căng thẳng. Cử tri không chỉ lựa chọn giữa Kamala Harris, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, và Donald Trump của Đảng Cộng hòa, mà còn bầu ra những người đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau ở cấp liên bang, tiểu bang và địa phương.

Nhưng tác động của cuộc bầu cử sẽ vượt xa Mỹ. Người nào ở Nhà Trắng cũng đều có ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách kinh tế, tài chính và tiền tệ của Mỹ, cũng như quan hệ đối ngoại của nước này. Và khi có bất ổn chính trị, các nhà đầu tư chuyển sang vàng - một tài sản an toàn được công nhận rộng rãi - khiến giá tăng.

Nhưng trước khi tìm hiểu điều gì có thể xảy ra với giá vàng, hãy cùng xem tại sao các cuộc bầu cử Mỹ lại ảnh hưởng đến kim loại quý này.

Bầu cử Mỹ tác động đến giá vàng như thế nào?

Giá vàng thường biến động trong thời gian diễn ra bầu cử Mỹ. Nói một cách đơn giản, khi có sự không chắc chắn - ví dụ, khi chúng ta không biết ai sẽ lãnh đạo một Chính phủ và do đó không biết những quyết định kinh tế và địa chính trị nào sẽ được đưa ra - thì vàng trở nên hấp dẫn hơn. Điều này là do các nhà đầu tư tìm kiếm các tài sản mang lại sự ổn định và bảo vệ bản thân chống lại lạm phát. Và khi nhu cầu về vàng cao sẽ đẩy giá lên.

Nhưng giá vàng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, không chỉ các cuộc bầu cử. Các cuộc xung đột ở Trung Đông và Đông Âu, các đợt cắt giảm thuế gần đây ở Mỹ, sức mạnh của đồng đô la Mỹ, thị trường toàn cầu và các sự kiện lớn khác đều đóng vai trò quan trọng.

Có thể nói, chính sự kết hợp của các sự kiện toàn cầu này - chứ không chỉ riêng những thay đổi trong giới lãnh đạo Mỹ - mới ảnh hưởng đến giá vàng. Tương tự như vậy, những gì xảy ra sau một cuộc bầu cử cũng ảnh hưởng đến nhu cầu về vàng. Ví dụ, các quyết định mà một Chính phủ mới đưa ra.

Tuy nhiên, Hội đồng Vàng Thế giới đã phát hiện ra rằng cuộc bầu cử ở Mỹ có thể tác động đến vàng theo những cách sau:

·Giá vàng có thể thấp hơn một chút vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử (so với mức trung bình dài hạn).

·Vàng có xu hướng hoạt động tốt hơn một chút trong sáu tháng trước chiến thắng của Đảng Cộng hòa.

·Vàng có thể kém hơn trước khi có tổng thống thuộc đảng Dân chủ. Ngoài ra, nhu cầu về vàng thỏi và tiền vàng ở Mỹ có thể tăng trong thời gian có tổng thống thuộc Dân chủ.

Các cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ trước đây đã ảnh hưởng đến giá vàng như thế nào?

Trước khi xem xét cuộc bầu cử năm 2024 có thể tác động như thế nào đến giá vàng, chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử giá vàng trong năm chu kỳ bầu cử Mỹ trước đây.

Sáu tháng trước Cuộc bầu cử Tổng thống năm 2020, giá vàng vào khoảng 54,40 USD/gram. Sáu tháng sau, giá vàng vào khoảng 56,60 USD/gram. Tuy nhiên, sự không chắc chắn liên quan đến đại dịch COVID-19 khiến giá vàng biến động trong thời gian này. Mặc dù giá vàng ban đầu tăng vọt sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 2016, nhưng giá đã ổn định khi các chính sách kinh tế mới bắt đầu có hiệu lực.

Trong sáu tháng trước cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012, giá vàng vào khoảng 53,50 USD/gram. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu và các vấn đề kinh tế toàn cầu khác đã tác động đến thị trường. Trong cuộc bầu cử vào tháng 11/2012, giá vàng vào khoảng 54,30 USD/gram. Trong những tháng sau cuộc bầu cử, giá vàng vào khoảng 42,20 USD/gram - một phần là do triển vọng kinh tế được cải thiện và nhu cầu của nhà đầu tư giảm.

Trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2008, giá vàng tăng do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sáu tháng sau khi Barack Obama đắc cử, giá vàng giảm nhẹ - nhưng sau đó lại tăng trở lại khi thị trường ổn định và các biện pháp kích thích có hiệu lực.

Nhìn chung, trong khi sự thay đổi chính trị dường như đã tác động đến giá, thì rõ ràng là các yếu tố khác - như COVID-19 và khủng hoảng tài chính - cũng có tác động.

Các cuộc bầu cử khác đã ảnh hưởng đến giá vàng như thế nào?

Nếu các cuộc bầu cử khác trên thế giới tạo ra sự bất ổn về địa chính trị, chúng có thể ảnh hưởng đến giá vàng.

Ví dụ, khi Vương quốc Anh công bố cuộc bầu cử bất ngờ vào tháng 7/2024, đã có 49% sự gia tăng về số lượng người mua kim loại quý thông qua Royal Mint. Lượng mua vàng tăng hơn 100%, với các sản phẩm phổ biến bao gồm tiền xu Britannia và thỏi vàng lớn.

Sau khi Đảng Quốc gia của Marine Le Pen không giành được chiến thắng rõ ràng trong cuộc bầu cử lập pháp của Pháp vào tháng 6/2024, đồng Euro đã mạnh lên, khiến giá vàng tính theo Euro giảm.

Sau đây là lý do tại sao một số cuộc bầu cử nhất định ảnh hưởng đến giá vàng toàn cầu:

Tiềm năng của các chính sách thương mại mới

Bất kỳ chính sách thương mại mới nào được Chính phủ mới thực hiện đều có thể tác động đến giá vàng. Ví dụ, sau cuộc bầu cử Mỹ, nếu có nhiều căng thẳng địa chính trị hơn giữa Mỹ và các cường quốc thế giới khác, điều này có thể tạo ra nhiều bất ổn kinh tế hơn, thúc đẩy nhiều nhà đầu tư chuyển sang nơi trú ẩn an toàn như vàng.

Liệu nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông Trump có dẫn đến nhiều căng thẳng chính trị hơn giữa Trung Quốc và Mỹ, có khả năng đẩy giá vàng lên cao không?

Hoặc nếu các nhà đầu tư mong đợi ông Trump nhưng bà Harris bất ngờ thắng cử, điều này có thể tạo ra nhiều bất ổn kinh tế hơn và thúc đẩy nhu cầu vàng không? Chỉ có thời gian mới trả lời được.

Những thay đổi có thể xảy ra về lãi suất

Những thay đổi do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thực hiện, như tăng hoặc giảm lãi suất, cũng có thể tác động đến giá vàng.

Những thay đổi về sức mạnh của USD

Nếu các nhà đầu tư tin tưởng hơn vào nền kinh tế Mỹ sau cuộc bầu cử, giá trị của USD có khả năng tăng lên. Tuy nhiên, nếu có dấu hiệu suy thoái kinh tế, các nhà đầu tư có thể ít tin tưởng hơn vào USD như một nơi lưu trữ tài sản an toàn - ít nhất là trong ngắn hạn. Đây là thời điểm nhu  cầu và giá vàng có thể tăng lên.

Rủi ro địa chính trị

Căng thẳng chính trị gia tăng, chẳng hạn như leo thang hơn nữa ở Trung Đông hoặc chiến tranh thương mại mới giữa Mỹ và Trung Quốc, có thể đẩy giá vàng lên cao nếu các nhà đầu tư cảm thấy không an toàn khi giữ tài sản của mình trên thị trường chứng khoán. Có khả năng chính quyền của bà Harris có thể có các mục tiêu chính sách đối ngoại rất khác so với chính quyền ông Trump, mặc dù cả hai ứng cử viên đều sẽ chịu áp lực phải giữ lạm phát ở mức thấp và tỷ lệ việc làm ở mức cao - hai chỉ số hiệu suất chính của một nền kinh tế vững mạnh.

Bất ổn chung

Khi khó dự đoán ai sẽ thắng cử tổng thống Mỹ, điều đó sẽ tạo ra nhiều bất ổn hơn cho các nhà đầu tư.

Biểu đồ bên dưới cho thấy giá vàng gần đây đã tăng như thế nào khi sự bất ổn xung quanh cuộc bầu cử Mỹ, cuộc chiến ở Trung Đông và các yếu tố khác đã thúc đẩy các nhà đầu tư tìm kiếm tài sản trú ẩn an toàn.

Giá vàng đã hoạt động như thế nào trong các chính quyền Mỹ trước đây?

Trong thời gian ông Biden làm Tổng thống Mỹ, giá vàng đã tăng lên mức cao kỷ lục - một phần do sự bất ổn kinh tế tăng lên do lạm phát tăng nhanh vào năm 2022. Các yếu tố khác đã góp phần vào sự tăng giá vàng, bao gồm xung đột Ukraine - Nga và các cuộc xung đột ở Trung Đông.

Khi ông Trump làm tổng thống, giá vàng cũng tăng mạnh, một xu hướng ít nhất có thể được quy cho một phần nguyên n hân là do căng thẳng địa chính trị gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc trong nhiệm kỳ của ông. Mối quan hệ với Ấn Độ và Iran xấu đi, tạo thêm một lớp bất ổn địa chính trị cho nền kinh tế toàn cầu.

Ngoài ra, đại dịch COVID-19 đã gây chấn động khắp các thị trường tài chính - thúc đẩy nhiều nhà đầu tư chuyển sang vàng trong thời kỳ biến động.

Điều gì sẽ xảy ra với giá vàng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2024?

Cho dù Kamala Harris trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Mỹ hay Donald Trump được tái đắc cử, mọi thứ đối với kim loại quý có vẻ sẽ tươi sáng.

Chuyên gia Nicky Shiels của Gold Avenue cho rằng: “ Kế hoạch kinh tế của Kamala Harris rất tiến bộ và đơn giản là lạm phát (sử dụng chính sách tăng thuế đối với các công ty và người có thu nhập cao để tài trợ cho hỗ trợ cho những người có thu nhập trung bình thấp chưa tạo dựng được của cải. Ví dụ, kế hoạch này bao gồm giải quyết tình trạng thiếu nhà ở của Mỹ bằng cách gửi tới 25.000 đô la tiền hỗ trợ thanh toán trước cho những người mua nhà lần đầu). Cả Trump và Harris đều là ứng cử viên của 'chính phủ lớn hơn', điều này có tác động tích cực đến Vàng ”.

Các nhà phân tích của Citigroup dự báo giá vàng sẽ vượt quá 3.000 USD vào cuối năm 2024. Goldman Sachs dự đoán giá sẽ đạt 2.900 USD vào đầu năm 2025. Nguyên nhân là:

(1) Các ngân hàng trung ương, đặc biệt là các ngân hàng ở các nền kinh tế mới nổi, đang tăng dự trữ vàng như một biện pháp phòng ngừa bất ổn kinh tế. (2) Căng thẳng địa chính trị. (3) Các nhà đầu tư cá nhân đã đổ xô đến vàng để kiếm lợi nhuận cả trong ngắn hạn và dài hạn. (4) Vàng có nguồn cung hạn chế.

Tất cả những điều này thúc đẩy nhu cầu và giá cả tăng lên - và tất cả đều dẫn đến giá vàng đạt mức cao kỷ lục mới trong năm nay. Bất kể ai thắng cử ở Mỹ, vàng rất có thể vẫn là nơi trú ẩn an toàn cho các nhà đầu tư.

 

 

SO SÁNH CHÍNH SÁCH CỦA TRUMP-HARRIS

Các cử tri Mỹ sẽ lựa chọn tân tổng thống vào ngày 5/11, giữa Phó Tổng thống Kamala Harris từ Đảng Dân chủ và cựu Tổng thống Donald Trump của Đảng Cộng hòa.

Chúng ta hãy cùng xem lập trường của hai ứng viên thế nào và so sánh chính sách của họ liên quan đến một loạt vấn đề khác nhau.

Lạm phát

Bà Harris cho biết ưu tiên trong ngày đầu tiên làm tổng thống của bà sẽ là cố gắng giảm chi phí thực phẩm và nhà ở cho các gia đình người lao động.

Bà cam kết sẽ cấm hành động thổi giá đối với hàng tạp hóa, giúp người mua nhà lần đầu, tăng nguồn cung nhà ở và tăng mức lương tối thiểu.

Tỷ lệ lạm phát tăng vọt dưới thời Tổng thống Biden, giống như ở nhiều nước phương Tây, một phần là do các vấn đề về nguồn cung hậu đại dịch Covid và cuộc chiến tranh Ukraine. Sau đó lạm phát đã giảm.

Ông Trump hứa sẽ "chấm dứt lạm phát và giúp nước Mỹ trở nên dễ sống trở lại" và khi được hỏi, ông nói rằng việc khoan dầu nhiều hơn sẽ giúp giảm chi phí năng lượng.

Ông Trump đã hứa sẽ hạ lãi suất, điều mà tổng thống không có thẩm quyền và ông cho rằng việc trục xuất những người nhập cư không có giấy tờ sẽ giảm bớt áp lực về nhà ở. Các nhà kinh tế học cảnh báo rằng lời tuyên bố áp thuế nhập khẩu cao hơn của ông Trump có thể đẩy giá lên cao nữa.

Thuế

Bà Harris muốn tăng thuế đối với các doanh nghiệp lớn và người Mỹ kiếm được 400.000 đô la Mỹ (khoảng hơn 10 tỷ đồng) mỗi năm.

Nhưng bà cũng đã công bố một số biện pháp, giúp giảm bớt gánh nặng thuế cho các gia đình, bao gồm việc mở rộng tín thuế trẻ em, một chương trình hoàn thuế liên bang cho các hộ gia đình.

Bà Harris không cùng quan điểm với ông Biden về thuế lãi vốn, ủng hộ mức tăng vừa phải hơn từ 23,6% lên 28% so với mức 44,6% của ông Biden.

Ông Trump đề xuất một số khoản cắt giảm thuế trị giá hàng ngàn tỷ đô la Mỹ, bao gồm việc gia hạn các khoản cắt giảm năm 2017 của ông, chủ yếu có lợi cho những người giàu có.

Ông cũng tuyên bố sẽ chi trả cho họ thông qua mức tăng trưởng cao hơn và thuế nhập khẩu.

Các nhà phân tích cho biết cả hai kế hoạch về thuế của hai bên sẽ làm tăng mức thâm hụt đang ngày càng phình to, nhưng kế hoạch của ông Trump sẽ làm tăng nhiều hơn.

Phá thai

Bà Harris đã đưa quyền phá thai trở thành trọng tâm trong chiến dịch tranh cử của mình và tiếp tục ủng hộ luật pháp bảo vệ quyền sinh sản trên cả nước.

Ông Trump đã chật vật để tìm một thông điệp nhất quán về phá thai.

Ba thẩm phán được ông Trump bổ nhiệm ở Tòa án Tối cao dưới thời ông làm tổng thống đã đóng vai trò quan trọng trong việc hủy bỏ quyền phá thai hiến định, một phán quyết năm 1973 được gọi là Roe kiện Wade.

Nhập cư

Bà Harris được giao nhiệm vụ giải quyết tận gốc cuộc khủng hoảng biên giới phía Nam và đã giúp huy động hàng tỷ đô la tiền tư nhân để thực hiện các khoản đầu tư trong khu vực nhằm ngăn chặn dòng người di cư về phía bắc.

Số lượng người vượt biên từ Mexico sang Mỹ đạt mức kỷ lục vào cuối năm 2023 nhưng kể từ đó, con số này đã giảm xuống mức thấp nhất trong bốn năm. Trong chiến dịch này, bà Harris đã cứng rắn hơn và nhấn mạnh đến kinh nghiệm của mình với vai trò là công tố viên tại bang California trong việc đối phó với những kẻ buôn người.

Ông Trump đã tuyên bố sẽ đóng cửa biên giới bằng cách hoàn thành việc xây dựng một bức tường và tăng cường thực thi luật pháp. Nhưng ông Trump đã thúc giục Đảng Cộng hòa hủy bỏ dự luật nhập cư cứng rắn, liên đảng, được bà Harris ủng hộ. Bà Harris cho biết bà sẽ khôi phục dự luật đó nếu đắc cử.

Ông Trump cũng tuyên bố sẽ tiến hành đợt trục xuất hàng loạt người nhập cư không có giấy tờ, lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Các chuyên gia nói với BBC rằng điều này sẽ phải đối mặt với những thách thức pháp lý.

Chính sách ngoại giao

Bà Harris đã tuyên thệ sẽ ủng hộ Ukraine "tới cùng". Bà Harris đã cam kết, nếu đắc cử, sẽ đảm bảo rằng Mỹ chứ không phải Trung Quốc sẽ giành chiến thắng trong "cuộc cạnh tranh của Thế kỷ 21".

Bà vốn là người từ lâu ủng hộ giải pháp hai nhà nước giữa người Israel và người Palestine và đã kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Dải Gaza.

Ông Trump có chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa biệt lập và muốn Mỹ thoát khỏi các cuộc xung đột ở những nơi khác trên thế giới.

Ông Trump đã tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh ở Ukraine trong vòng 24 giờ thông qua một giải pháp đàm phán với Nga, một động thái mà Đảng Dân chủ cho rằng sẽ tiếp thêm sức mạnh cho Tổng thống Nga Vladimir Putin.

Trump đã định vị mình là người ủng hộ thủy chung của Israel nhưng lại nói rất ít về cách ông sẽ chấm dứt chiến tranh ở Gaza.

Thương mại

Bà Harris đã chỉ trích kế hoạch quy mô lớn của ông Trump về áp thuế nhập khẩu, gọi đó là mức thuế quốc gia đối với các gia đình lao động, khiến mỗi hộ gia đình phải trả 4.000 đô la Mỹ một năm.

Bà Harris dự kiến có cách tiếp cận nhằm vào mục tiêu cụ thể hơn đối với việc đánh thuế nhập khẩu, duy trì mức thuế mà chính quyền Tổng thống Biden đã áp lên một số mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc như xe điện.

Ông Trump đã đưa thuế quan trở thành cam kết trọng tâm trong chiến dịch này. Ông đã đề xuất mức thuế mới 10-20% đối với hầu hết hàng hóa nước ngoài và mức thuế cao hơn nhiều đối với hàng hóa từ Trung Quốc.

Ông Trump cũng tuyên bố sẽ thu hút các công ty ở lại Hoa Kỳ để sản xuất hàng hóa bằng cách áp dụng mức thuế doanh nghiệp thấp hơn cho họ.

Khí hậu

Bà Harris, trên cương vị phó tổng thống, đã giúp thông qua Đạo luật Giảm lạm phát, một đạo luật đã chuyển hàng trăm tỷ đô la Mỹ cho lĩnh vực năng lượng tái tạo và các chương trình tín dụng và hoàn thuế xe điện.

Nhưng bà Harris đã từ bỏ sự phản đối của mình đối với công nghệ thủy lực phá vỡ đá phiến, trong khai thác dầu khí vốn bị các nhà môi trường phản đối.

Ông Trump, khi còn là chủ nhân Nhà Trắng, đã bãi bỏ hàng trăm biện pháp bảo vệ môi trường, bao gồm cả việc hạn chế phát thải CO2 từ các nhà máy điện và xe cộ.

Trong chiến dịch tranh cử, ông Trump đã tuyên bố sẽ mở rộng hoạt động khoan dầu vùng Bắc Cực và đã công kích xe điện.

Y tế

Bà Harris nằm trong chính quyền Nhà Trắng đã giảm chi phí thuốc theo toa và giới hạn giá insulin ở mức 35 đô la Mỹ.

Trump, người thường tuyên bố sẽ bãi bỏ Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền, đã tuyên bố rằng nếu tái đắc cử, ông sẽ chỉ cải thiện đạo luật này nhưng không đưa ra chi tiết cụ thể. Đạo luật này đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp bảo hiểm y tế cho hàng triệu người dân.

Ông Trump đã kêu gọi điều trị vô sinh được hỗ trợ thêm bằng nguồn thu thuế, nhưng điều này có thể bị các đảng viên Cộng hòa tại Quốc hội phản đối.

Pháp luật

Bà Harris đã cố gắng cho thấy sự tương phản về kinh nghiệm của mình với tư cách là một công tố viên với ông Trump - người bị kết án phạm tội hình sự.

Ông Trump đã cam kết sẽ triệt phá các băng đảng ma túy, dẹp tan bạo lực băng đảng và kiến thiết lại các thành phố do Đảng Dân chủ quản lý, những nơi mà theo ông là đang tràn ngập tội phạm.

Ông Trump đã tuyên bố sẽ sử dụng quân đội hoặc Vệ binh Quốc gia để đối phó với những người mà ông gọi là "kẻ thù bên trong" và "những kẻ điên cực tả" nếu họ phá hoại cuộc bầu cử.

Súng đạn

Bà Harris tuyên bố ngăn chặn bạo lực súng đạn là cam kết chính và bà cùng phó tướng Tim Walz - cả hai đều sở hữu súng - thường ủng hộ các luật chặt chẽ hơn.

Nhưng họ xem các việc như tăng cường kiểm tra lý lịch hoặc cấm vũ khí tấn công sẽ cần có sự giúp đỡ từ Quốc hội.

Ông Trump đã định vị mình là người bảo vệ kiên định Tu chính án thứ hai, quyền hiến định được mang vũ khí.

Phát biểu tại Hiệp hội Súng trường Quốc gia vào tháng 5, ông nói mình là người bạn tốt nhất của hiệp hội này.

Cần sa

Bà Harris đã kêu gọi phi hình sự hóa cần sa để sử dụng cho mục đích giải trí. Bà Harris cho biết quá nhiều người đã bị tù giam vì tàng trữ và chỉ ra số trường hợp bị bắt giữ cao một cách không cân xứng đối với nam giới da đen và người Latinh.

Ông Trump đã giảm nhẹ lập trường và cho biết đã đến lúc chấm dứt "các vụ bắt giữ và giam giữ không cần thiết" đối với người trưởng thành vì một lượng nhỏ cần sa cho mục đích sử dụng cá nhân.

 

 

CUỘC ĐUA ĐỐT TIỀN LỚN NHẤT LỊCH SỬ

Nước Mỹ bỏ ra gần 16 tỷ USD cho cuộc bầu cử năm nay, trong khi tổng chi phí cho tổng tuyển cử năm 2021 của nước láng giềng Canada chỉ là 69 triệu USD.

Khi chuyển đến sống ở London năm ngoái, Madeleine Bialke, một nghệ sĩ người Mỹ, đã bị sốc trước những gì cô thấy về cuộc bầu cử tại Anh mùa hè năm nay.

Toàn bộ chiến dịch tranh cử chỉ kéo dài 6 tuần. Không có quảng cáo nào trên các chương trình TV cô thường xem. Và khi cuộc bầu cử kết thúc, người chiến thắng lên nắm quyền vào ngay ngày hôm sau, chứ không phải chờ nhiều tháng mới nhậm chức.

"Thật tuyệt khi có một cuộc bầu cử diễn ra trong thời gian ngắn như vậy", cô nói. "Nó khiến tôi nhận ra bầu cử ở Mỹ điên rồ đến thế nào".

Người Mỹ đã quen với thực tế rằng cuộc đua tổng thống của họ kéo dài gần hai năm, với chi phí lên đến hàng tỷ USD và không ngừng ảnh hưởng tới cuộc sống của họ bằng vô số quảng cáo không ngừng nghỉ trên TV, radio, biển hiệu dọc đường phố và cả tin nhắn trên điện thoại.

Cuộc bầu cử Mỹ năm nay có khả năng sẽ là cuộc bầu cử tốn kém nhất lịch sử, với khoảng 15,9 tỷ USD được chi cho tất cả các cuộc đua liên bang, vượt qua mức 15,1 tỷ USD vào năm 2020, theo Open Secrets, nhóm phi đảng phái theo dõi kinh phí cho các chiến dịch tranh cử.

Nếu điều chỉnh theo lạm phát, bầu cử năm 2024 rẻ hơn một chút so với năm 2020, song mức chi tiêu của cả hai sự kiện đều gần gấp đôi chi phí cho cuộc đua năm 2016 và gấp ba lần chi phí cho các cuộc bầu cử vào đầu những năm 2000, thậm chí đã điều chỉnh theo mức tăng giá kể từ đó.

Mức độ tốn kém của bầu cử Mỹ, cả về kinh tế lẫn thời gian, đều vượt trội so với các nền dân chủ công nghiệp hóa khác. Chiến dịch tranh cử tại Canada thường chỉ kéo dài 36-50 ngày. Tổng chi phí cho cuộc bầu cử ở Canada năm 2021 là 69 triệu USD, đã điều chỉnh theo tỷ giá hiện tại.

Tất cả đảng phái của Anh đã chi tổng cộng 80 triệu USD cho chiến dịch của họ trong cuộc bầu cử năm 2019. Các đảng chưa công bố tổng chi tiêu cho cuộc bầu cử năm nay, nhưng con số dự kiến không tăng nhiều. Họ đã huy động được tổng cộng 97 triệu USD trong 6 tháng đầu năm, nhưng không phải tất cả đều được chi cho chiến dịch.

Trong chiến dịch tranh cử kéo dài 6 tuần của Anh năm nay, số tiền quyên góp nhỏ đến mức đáng kinh ngạc.Thủ tướng Keir Starmer và Công đảng của ông huy động thành công 12,3 triệu USD, trong khi đảng Bảo thủ của cựu thủ tướng Rishi Sunak chỉ quyên được 2,5 triệu USD.

Để so sánh, Phó tổng thống Kamala Harris, ứng viên đảng Dân chủ, đã huy động được 300 triệu USD trong hai tuần đầu tiên kể từ khi bà thay thế Tổng thống Joe Biden trên đường đua Nhà Trắng. Từ đó đến nay, bà đã huy động tổng cộng một tỷ USD, cao hơn khoảng 200 triệu USD so với số tiền cựu tổng thống Donald kêu gọi được.

Kỷ lục về số tiền mà một đảng phái chính trị ở Canada huy động được trong một năm chỉ là 25,5 triệu USD, do đảng Bảo thủ gây quỹ vào năm 2023. Con số này tương đương hai ngày gây quỹ của Phó tổng thống Harris.

Các cuộc bầu cử cấp bang ở cuối danh sách chi tiêu thậm chí cũng tốn kém hơn tổng tuyển cử ở nhiều quốc gia khác. Trong cuộc đua vào ghế Thượng viện năm 2020, thượng nghị sĩ Dân chủ bang Georgia Raphael Warnock đã chi 180,66 triệu USD, chỉ kém một chút so với tổng chi tiêu cho chiến dịch tranh cử ghế thủ tướng ở Anh, Đức và Canada trong các cuộc bầu cử gần đây nhất cộng lại.

Mức độ tốn kém như vậy khiến nhiều người Mỹ không hài lòng. Các cử tri đã chán ngán khi phải nghe về chính trị trong thời gian dài và bị đập vào mắt bởi những quảng cáo liên tục. Người Mỹ hiện nay không đồng tình trước hàng loạt vấn đề, nhưng hơn 80% nói rằng các nhà tài trợ có quá nhiều ảnh hưởng đến những chính trị gia ở cả đảng Dân chủ và Cộng hòa, theo một cuộc khảo sát gần đây do Pew Research thực hiện.

"Cảm giác như các ứng viên của chúng ta chỉ tập trung vào gây quỹ", Van Kong, bảo vệ tại một khách sạn ở thành phố New York, cho biết. "Và mọi thứ kéo dài quá lâu".

Ngày càng có nhiều chiến dịch tranh cử được tài trợ bởi một số ít người siêu giàu như tỷ phú công nghệ Elon Musk.

Ở cuộc bầu cử năm 2004, khoảng 23 người Mỹ đã quyên hơn một triệu USD, với tổng số tiền họ ủng hộ cho các chiến dịch tranh cử là 58,9 triệu USD, theo Open Secrets. Năm nay, có 408 người đã vượt qua mốc một triệu USD và quyên góp tổng cộng 2,3 tỷ USD.

Musk gần đây gây chú ý khi tuyên bố trao một triệu USD mỗi ngày cho một cử tri được chọn ngẫu nhiên trong số những người đã ký vào bản kiến nghị ủng hộ quyền tự do ngôn luận và quyền mang vũ khí, hai vấn đề quan trọng được đảng Cộng hòa tập trung khai thác khi vận động tranh cử.

Theo Pew, khoảng 72% người Mỹ nói rằng họ muốn các chiến dịch tranh cử phải bị áp giới hạn chi tiêu, so với 11% không đồng tình.Việc chạy theo tiền bạc cũng ảnh hưởng đến các chính trị gia, những người phải dành tới một nửa tuần làm việc để gây quỹ, trong đó có việc gọi điện thoại cho những người lạ để xin tiền quyên góp.

"Toàn bộ lịch họp quốc hội của chúng tôi được sắp xếp để giúp các thành viên dễ dàng gây quỹ hơn trong suốt cả ngày", Dean Phillips, đảng viên Dân chủ đến từ Minnesota, người từng đề xuất dự luật năm 2022 nhằm hạn chế thời gian các nghị sĩ có thể sử dụng để gây quỹ.

Vậy vì sao các cuộc bầu cử Mỹ lại kéo dài quá lâu và quá đắt đỏ?

Một phần câu trả lời nằm ở quy mô. Mỹ là nước có diện tích lớn và việc tiếp cận cử tri ở các thị trường truyền thông đắt đỏ như New York luôn tốn kém.

Một nguyên nhân khác bắt nguồn từ các cuộc bầu cử sơ bộ. Trong hệ thống nghị viện, như ở hầu hết các nước châu Âu, các đảng phái chính trị thường tự chọn ứng viên của họ để ra tranh cử. Điều đó cũng từng xảy ra ở Mỹ, nơi các lãnh đạo đảng thường chọn ứng viên trong các đại hội toàn quốc ồn ào.

Nhưng cách làm này được coi là kém dân chủ, vì vậy vào giữa những năm 1970, bầu cử sơ bộ đã trở thành con đường chính để các ứng viên nhận được đề cử. Các chính trị gia bắt đầu đầu tư mạnh để cố gắng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ.

"Với hệ thống nghị viện, bạn dành nhiều năm cống hiến cho đảng và được trao thưởng bằng việc tên của bạn xuất hiện trong danh sách ứng viên. Tại Mỹ, bất kỳ cá nhân nào cũng có thể đấu tranh để giành đề cử từ đảng, nhưng phải tốn rất nhiều tiền", Elaine Kamarck, chuyên gia cấp cao tại Viện nghiên cứu Brookings, trụ sở tại Washington, cho hay.

Một lý do lớn khác khiến cuộc bầu cử ở Mỹ tốn kém như vậy là vì nó ít bị áp hạn chế. Ở Anh, mỗi ứng viên quốc hội chỉ có thể chi khoảng 25.000 USD cho chiến dịch tranh cử. Đảng được phép chi tổng cộng khoảng 40 triệu USD. Họ hiếm khi chi nhiều như vậy.

Tại Pháp, mức trần cứng về chi tiêu cho các ứng viên tổng thống là 22,5 triệu euro, tương đương 25 triệu USD, và 50% trong số đó do nhà nước chi trả. Các tập đoàn, thậm chí cả các công đoàn Pháp, đều bị cấm quyên góp. Tổng thống Biden năm 2020 chi nhiều hơn 70 lần so với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron Pháp để giành chiến thắng bầu cử, mặc dù dân số Mỹ chỉ lớn hơn 5 lần.

Trong nhiều thập kỷ, hệ thống tài trợ chiến dịch của Mỹ khá giống với các nước châu Âu. Nhưng tòa án Mỹ đã liên tục phán quyết rằng những giới hạn về tài trợ chiến dịch không nên hạn chế quyền tự do ngôn luận. Nói cách khác, việc không được phép chi tiền như một chiến dịch tranh cử sẽ hạn chế khả năng truyền đạt quan điểm của bạn đến cử tri.

Tòa án Tối cao Mỹ đã nới lỏng thêm các hạn chế vào năm 2010, khi quyết định những tập đoàn và công đoàn có cùng quyền tự do ngôn luận như các cá nhân. Họ vẫn không thể trực tiếp trao tiền cho các ứng viên, nhưng có thể quyên góp cho các thực thể được gọi là siêu ủy ban hành động chính trị (siêu PAC). Những tổ chức này ủng hộ những vấn đề giống hệt điều mà các ứng viên họ hậu thuẫn thúc đẩy.

Theo Open Secrets, chi tiêu của các siêu PAC trong hai kỳ bầu cử gần đây đã tăng vọt, từ 847 triệu USD do vài trăm siêu PAC huy động trong cuộc bầu cử năm 2012 lên 5,7 tỷ USD do 2.966 nhóm huy động trong cuộc đua năm nay.

Ngoài ra, còn có những lỗ hổng cho phép các siêu PAC che giấu nguồn tiền của họ đến từ đâu. Siêu PAC Dân chủ hàng đầu trong kỳ bầu cử năm nay là Future Forward USA đã huy động được 394 triệu USD. Khoảng 136 triệu USD trong đó đến từ nhóm có tên Future Forward USA Action và đây là nhóm được quyền không tiết lộ danh tính nhà tài trợ.

Vậy việc chi tiêu số tiền này có tạo ra khác biệt không? Một nghiên cứu học thuật mới đã xem xét 1.000 nhà tài trợ hàng đầu cho các cuộc đua vào quốc hội trong 8 cuộc bầu cử vừa qua và phát hiện ra rằng việc để mất một nhà tài trợ hàng đầu đã làm giảm tỷ lệ phiếu bầu của ứng viên trung bình 2,5 điểm phần trăm. Khác biệt này hoàn toàn có khả năng tạo ra bước ngoặt định đoạt kết quả cuối cùng, đặc biệt là với những cuộc đua sít sao như năm nay.

Vào những năm 1890, cựu thượng nghị sĩ Mark Hanna, người điều hành chiến dịch tranh cử của tổng thống Mỹ William McKinley, đã nói một câu nổi tiếng: "Có hai thứ quan trọng trong chính trị. Thứ nhất là tiền, và tôi không nhớ thứ hai là gì".

 

 

THỜI KHẮC LỊCH SỬ CỦA NƯỚC MỸ: 3 KỊCH BẢN CÓ THỂ XẢY RA!

Cả thế giới đang chờ đợi kết quả cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2024. Chính sách của lãnh đạo Nhà Trắng tiếp theo sẽ ảnh hưởng tới nền chính trị và kinh tế toàn cầu như thế nào?

Chỉ còn hơn 24 giờ nữa, cuộc bầu cử Tổng thống thứ 47 của nước Mỹ sẽ diễn ra. Cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa ứng cử viên đảng Dân chủ Kamala Harris và ứng cử viên Cộng hòa Donald Trump trở thành một trong những chủ đề được thảo luận nhiều nhất trong giới truyền thông.

Cả thế giới đang chờ xem ai sẽ trở thành chủ Nhà Trắng trong cuộc bầu cử. Liệu bà Harris có tiếp tục chính sách toàn cầu của Tổng thống Joe Biden hay sẽ là ông Trump tập trung “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”?

Ba kịch bản kết quả bầu cử

Trong cuộc phỏng vấn với Business Insider, ông Christophe Barraud - nhà kinh tế nổi tiếng và là nhà dự báo hàng đầu của Bloomberg cho biết, ông Trump có nhiều khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Mỹ ngày 5/11 và đảng Cộng hòa sẽ kiểm soát cả hai viện của Quốc hội.

Ông cũng dự đoán nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng trở lại bất kể kết quả thế nào: Dù ông Trump hay bà Harris giành chiến thắng, tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ sẽ tăng nhanh.

Theo ông Barraud, nhìn chung, mức tăng trưởng GDP của Mỹ trong năm 2024 sẽ đạt 2,7% so với dự báo 2,6% và năm 2025 sẽ là 2,1% so với mức dự báo là 1,8%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng có thể thay đổi một chút tùy thuộc vào việc nội bộ chính quyền Mỹ sẽ chia rẽ như thế nào trong năm tới.

Ở kịch bản thứ nhất, Barraud cho rằng, nếu bà Harris chiến thắng trong tình hình Quốc hội bị chia rẽ thì sẽ có rất ít thay đổi về mặt kinh tế.

Kịch bản thứ hai, nếu ông Trump thắng, nhưng Quốc hội vẫn bị chia rẽ, thì sẽ ít có khả năng cắt giảm thuế đối với các tập đoàn và hộ gia đình. Do đó, đảng Cộng hòa có thể sẽ tập trung vào chính sách đối ngoại, nghĩa là các hạn chế thương mại và thuế quan mới.

Kết quả này sẽ gây bất lợi cho tăng trưởng toàn cầu, trong khi sẽ trung lập với GDP của Mỹ trong ngắn hạn. Thế nhưng, về lâu dài, khi các nước trả đũa, điều này có thể gây tác động ngược và làm chậm sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ.

Ở kịch bản thứ ba, cũng là kịch bản mà ông Barraud tin là có khả năng xảy ra nhất, ông Trump chiến thắng và đảng Cộng hoà kiểm soát hoàn đối với Quốc hội.

Theo vị chuyên gia, đảng Cộng hòa chắc chắn sẽ nắm quyền kiểm soát Thượng viện, nhưng có thể có sự không chắc chắn ở Hạ viện.

Trong kịch bản này, ông Trump sẽ có cơ hội thực hiện những lời hứa trong chiến dịch tranh cử của mình, bao gồm việc cắt giảm thuế cho các tập đoàn và hộ gia đình. Nó cũng có thể buộc ông phải tập trung nhiều hơn vào chính sách đối nội hơn là đối ngoại.

Ông Barraud cho rằng, trong ngắn hạn, điều đó sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Mỹ, tạo ra mức tăng trưởng GDP khoảng 2,1 - 2,3% năm 2025.

Chính sách đối ngoại của Mỹ sau bầu cử

Cục diện thế giới đang trong giai đoạn chuyển đổi từ trật tự đơn cực sang đa cực, các cường quốc đang tìm cách tập hợp lực lượng, các trung tâm quyền lực hình thành sẽ là thách thức to lớn đối với các giá trị và ảnh hưởng toàn cầu của Mỹ.

Các cuộc xung đột ở Ukraine, Dải Gaza, Sudan, vấn đề hạt nhân Iran, căng thẳng trên bán đào Triều Tiên... đang đặt ra những câu hỏi về vai trò của Washington.

Các nhà phân tích chính trị cho rằng, Tổng thống Mỹ tiếp theo sẽ phải làm việc trong bối cảnh thế giới đang đang diễn ra cuộc đối đầu lớn nhất giữa các cường quốc sau Chiến tranh Lạnh.

Bà Comfort Ekhuase Ero, chủ tịch và giám đốc điều hành của Internationalr Crisis Group, cho biết: “Mỹ vẫn là nước đóng vai trò quan trọng nhất trong các vấn đề hòa bình và an ninh quốc tế, nhưng khả năng giúp giải quyết các cuộc xung đột của Washington đã giảm đi nhiều".

Kết quả bầu cử tác động đến cuộc xung đột Ukraine

Mỹ là nước cung cấp viện trợ trợ lớn nhất cho Ukraine kể từ khi Nga phát động “Chiến dịch quân sự đặc biệt” vào Ukraine với hơn 52 tỷ USD hỗ trợ an ninh. Hàng chục tỷ USD nữa đã được phân bổ dưới dạng hỗ trợ tài chính và nhân đạo.

Kiev phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ quân sự, tài chính và ngoại giao của Mỹ trong cuộc xung đột với Nga. Kết quả bầu cử ở Mỹ sẽ ảnh hưởng đến Ukraine nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, nó sẽ quyết định liệu Ukraine có tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Mỹ hay không, hoặc Mỹ sẽ hỗ trợ ở mức độ nào.

Các ứng cử viên Trump và Harris có quan điểm rất khác nhau về việc ủng hộ Ukraine.

Tại Đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ ngày 19/8/2024, bà Harris tuyên bố sẽ tiếp tục ủng hộ Ukraine và NATO. Trong buổi tiếp Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky ở Washington, bà tuyên bố rằng việc ủng hộ Kiev không phải là từ thiện mà là lợi ích chiến lược của Mỹ. Bà đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục chính sách của ông Biden và giúp đỡ Ukraine cho đến khi đánh bại Nga.

Trong khi đó, ông Trump nói, Tổng thống Nga Vladimir Putin "sẽ không tấn công Ukraine" nếu ông ở Nhà Trắng.

Ông thường xuyên chỉ trích hình thức và mức độ viện trợ cho Ukraine, cũng như tuyên bố ý định chấm dứt xung đột Nga - Ukraine bằng cách đưa các bên ngồi vào bàn đàm phán ngay sau khi ông nhậm chức.

Ông Trump cũng đưa ra công thức “đổi đất lấy hoà bình”, kêu gọi Ukraine nhượng bộ một phần lãnh thổ cho Nga để chấm dứt chiến tranh. Ông cũng không ủng hộ Ukraine gia nhập NATO.

Dưới thời bà Harris, những người theo đảng Dân chủ sẽ phải cạnh tranh với quyền điều hành của Thượng viện hoặc Hạ viện.

Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng bất kể ai trở thành Tổng thống thì áp lực sẽ đều đè nặng lên Kiev, bởi các nhà lập pháp Mỹ ngày càng miễn cưỡng thông qua các gói viện trợ lớn cho Ukraine.

Cục diện với NATO, EU và Liên Hợp Quốc

Nếu ông Donald Trump thắng thì đó sẽ là một cơn ác mộng đối với châu Âu, đặc biệt là khi dư âm về lời đe dọa rút khỏi NATO của ông tới nay vẫn còn vang vọng trong tai mọi người.

Chi tiêu quốc phòng của Washington tương đương 2/3 ngân sách quân sự của 31 quốc gia thành viên NATO. Ngoài NATO, Mỹ chi tiêu cho quân sự của mình nhiều hơn 10 quốc gia lớn nhất trên thế giới cộng lại, gồm cả Trung Quốc và Nga.

Ông Trump nhiều lần nói rằng, ông là người kiên quyết đòi các nước thành viên NATO phải đóng góp 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của họ cho Liên minh, nhưng đến nay chỉ có 23 quốc gia thành viên thực hiện được mục tiêu này.

Trong khi đó, nếu bà Harris thắng, NATO sẽ được hưởng lợi. Bà Harris sẽ sẵn sàng tiếp tục hợp tác với NATO và Liên minh châu Âu (EU) để đạt được chiến thắng ở Ukraine, nhưng sẽ không từ bỏ việc gây áp lực lên châu Âu về chi tiêu quân sự.

Ở một khía cạnh khác, Mỹ là nước tài trợ lớn nhất trong hệ thống Liên Hợp Quốc (LHQ) với mức đóng góp kỷ lục năm 2022 lên tới 18,1 tỷ USD.

Song, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Trump đã cắt tài trợ cho một số cơ quan của LHQ và rút khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các nhà tài trợ khác phải vội vã lấp đầy sự thiếu hụt này.

Quan hệ thương mại với Trung Quốc

Cựu Tổng thống Trump từng khởi xướng cuộc chiến thương mại với Bắc Kinh trong nhiệm kỳ 2017-2021 bằng cách cấm xuất khẩu công nghệ cao sang Trung Quốc, với lý do là các hoạt động thương mại không công bằng và đe dọa an ninh quốc gia Mỹ.

Giáo sư Rana Mitter, nhà nghiên cứu hàng đầu về các vấn đề Trung Quốc, đồng thời là nhà sử học người Anh nghiên cứu về quan hệ Mỹ - Châu Á tại Đại học Harvard, cho rằng mức thuế 60% do ông Trump đề xuất đánh vào tất cả hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc "là cú sốc lớn nhất đối với nền kinh tế toàn cầu trong nhiều thập kỷ”.

Áp đặt mức thuế cao đối với Trung Quốc và nhiều đối tác thương mại khác là một trong những chính sách nhất quán của ông Trump nhằm thực hiện mục tiêu “Nước Mỹ trên hết”. Tuy nhiên, Trump cũng ca ngợi điều mà ông coi là mối liên hệ cá nhân giữa ông với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Về điểm này, các đảng viên Cộng hòa và Dân chủ lại là những người đều theo đường lối cứng rắn. Cả hai phía đều cho rằng Bắc Kinh có tham vọng vượt Mỹ để trở thành cường quốc số một trên thế giới.

Trong quan hệ với Bắc Kinh, giáo sư Mitter nhận thấy một số khác biệt giữa bà Harris và ông Trump như sau:

Nếu ông Trump thắng cử thì “các mối quan hệ với Trung Quốc có thể sẽ phát triển ở mức độ như hiện nay và đó sẽ là một “kịch bản suôn sẻ hơn”.

Về phần bà Harris, trong suốt chiến dịch tranh cử của mình, bà đã tuân theo chính sách của Tổng thống Biden đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, bà do dự coi Trung Quốc là địch thủ thực sự hoặc tiềm tàng và nếu được bầu, bà hy vọng sẽ duy trì đối thoại với Chủ tịch Tập Cận Bình.

Không giống ông Trump, bà Harris không quan tâm đến chiến tranh thương mại. Song, cả hai phía đều có quan điểm cứng rắn đối với Bắc Kinh, coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh khốc liệt để giành ngôi vị số một thế giới. Bà Harris đã cam kết đảm bảo nước Mỹ vượt trội hơn Trung Quốc và tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ 21.

Từ các luận điểm trên, giới quan sát cho rằng, bất kể ai chiến thắng thì tân Tổng thống của Mỹ đều có quan điểm cứng rắn đối với những tham vọng của Bắc Kinh liên quan đến Biển Đông hay tăng cường hoạt động quân sự xung quanh đảo Đài Loan (Trung Quốc).

Bầu cử Mỹ ảnh hưởng tới Trung Đông

Về Trung Đông, ứng cử viên đảng Dân chủ Kamala Harris nhiều lần lặp lại sự ủng hộ mạnh mẽ của Tổng thống Biden đối với "quyền tự vệ của Israel", nhưng cũng nhấn mạnh rằng "việc giết hại những người Palestine vô tội phải dừng lại".

Ở khía cạnh này, ông Trump tuyên bố đã đến lúc "trở lại hòa bình và ngừng giết người", nhưng ông cũng được cho là đã nói với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu rằng "Hãy làm những gì ông phải làm".

Ông Trump cam kết “sẽ sớm đạt được hòa bình ở Trung Đông”, hứa sẽ mở rộng Hiệp định Abraham năm 2020, bình thường hóa quan hệ giữa Israel và một số quốc gia Ả Rập. Tuy nhiên, nhiều người coi hướng đi này của ông là đẩy người Palestine ra ngoài lề và góp phần vào cuộc khủng hoảng chưa từng có hiện nay.

Đối với các vấn đề khu vực rộng lớn hơn như Iran, bà Harris và ông Trump cũng có cách tiếp cận khác nhau. Để đáp trả cuộc tấn công bằng tên lửa của Iran đầu tháng 10/2024, ông Trump đã khuyên Israel “tấn công các cơ sở hạt nhân của Tehran trước và xử lý các vấn đề còn lại sau”.

Năm 2015, dưới chính quyền của Tổng thống thuộc đảng Dân chủ Barack Obama, Mỹ đã ký thoả thuận hạt nhân với Iran (JCPOA). Tuy nhiên, tới năm 2018, ông Trump tuyên bố rút Mỹ khỏi thoả thuận này và áp đặt các lệnh trừng phạt “khốc liệt chưa từng có” chống Iran.

Hiện nay, cả bà Harris và ông Trump đều cùng quan điểm về việc ký kết một thỏa thuận mới nhằm ngăn chặn Iran sở hữu vũ khí hạt nhân, đồng thời mong muốn mở rộng các thỏa thuận bình thường hóa quan hệ giữa Israel với các nước Ả Rập, đặc biệt là Ả Rập Saudi. Trước đó, ông Trump từng khởi xướng hướng đi này bằng “Hiệp ước Abraham”.

Cuộc bầu cử cạnh tranh nhất lịch sử Mỹ

Có thể nói, năm 2024 chứng kiến cuộc bầu cử Tổng thống mang tính cạnh tranh nhất trong lịch sử nước Mỹ hiện đại. Rất khó để dự đoán ai sẽ giành chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu ngày 5/11.

Hầu hết các thăm dò dư luận gần đây cho thấy tỷ lệ ủng hộ hai ứng cử viên Kamala Harris và Donald Trump rất sít sao. Kết quả quyết định người chiến thắng sẽ có tại các hòm phiếu vào ngày mai.

Song, việc công bố kết quả bầu cử có thể phải hoãn lại một ngày nếu số phiếu không chêch lệch nhau nhiều, đặc biệt là ở các bang chiến trường như Michigan, Pennsylvania và Wisconsin.

 

 

MỸ ĐIỀU MÁY BAY NÉM BOM HẠT NHÂN, CĂNG THẲNG TRUNG ĐÔNG TĂNG NHIỆT

Lầu Năm Góc thông báo, quân đội Mỹ sẽ triển khai thêm lực lượng tới Trung Đông, bao gồm cả một số máy bay ném bom chiến lược B-52H có khả năng mang đầu đạn hạt nhân.

Đài RT dẫn lời phát ngôn viên Lầu Năm Góc, Thiếu tướng Pat Ryder cho biết, Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã ra lệnh triển khai thêm lực lượng để bù đắp cho việc nhóm tác chiến tàu sân bay USS Abraham Lincoln rời khỏi Trung Đông theo lịch trình.

Theo ông Ryder, ngoài một số máy bay ném bom chiến lược B-52H, các khí tài khác sắp được điều động đến khu vực còn có thêm các tàu khu trục phòng thủ tên lửa đạn đạo, phi đội chiến đấu cơ và máy bay tiếp nhiên liệu. Người phát ngôn lưu ý, lực lượng này dự kiến sẽ đến “trong những tháng tới” mà không đưa ra bất kỳ khung thời gian chính xác nào.

Động thái được cho là thể hiện cam kết của Washington đối với việc bảo vệ Israel cũng như “giảm leo thang thông qua răn đe và ngoại giao”. Lầu Năm Góc nêu rõ, động thái cùng “quyết định gần đây về việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) tới Israel” là nhằm ứng phó với Iran.

“Bộ trưởng Austin tiếp tục khẳng định, nếu Iran, các đối tác hoặc lực lượng ủy nhiệm của họ tận dụng thời điểm này để nhắm mục tiêu vào các nhân viên hoặc lợi ích của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ người của mình”, phát ngôn viên Lầu Năm Góc nhấn mạnh.

Tuyên bố được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng tiếp tục leo thang ở Trung Đông, trong đó Iran và Israel vẫn đang chìm trong vòng xoáy bạo lực. Trong lần leo thang mới nhất, các lực lượng Tel Aviv đã tiến hành một loạt vụ không kích vào Iran hôm 23/10. Đợt tấn công này nhằm “ăn miếng, trả miếng” vụ Iran bắn tới 180 quả tên lửa đạn đạo vào Israel tối 1/10 để trả đũa cho một loạt vụ ám sát các nhân vật cấp cao bị cáo buộc do Israel thực hiện.

 

Nguồn: CafeF; BBC; Vnexpress; Soha; Vietnamnet

Xem thêm:
Về trang trước

Chủ đề:

Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá

Việt Nam

Người Việt hải ngoại

EU

Thế giới

Lên đầu trang