- Tư vấn
- Giải đáp
Các trường hợp bị loại trừ khỏi việc hưởng thừa kế nhà đất theo quy định trong Điều §621 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm:
Trường hợp 1
Những người đã bị kết án về hành vi cố ý vi phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc tạo ra hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, làm tổn thương nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Trường hợp 2
Những người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Trường hợp 3
Những người đã bị kết án về hành vi cố ý vi phạm tính mạng của người thừa kế khác với mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
Trường hợp 4:
Những người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Trường hợp 5
Con đã thành niên có khả năng lao động và toàn bộ di sản được thừa kế theo di chúc hợp pháp nhưng không cho người con đó hưởng thừa kế
Mặc dù bị loại trừ khỏi thừa kế, nhưng nếu người để lại di sản đã biết về hành vi của những người này, và vẫn cho phép họ hưởng di sản theo di chúc, thì họ vẫn được hưởng phần di sản.
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rõ ràng về việc những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp di sản được chia theo pháp luật, nhưng họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Vì thế, nếu người con đã thành niên (từ 18 tuổi trở lên) có khả năng lao động không được hưởng di sản thừa kế khi:
Người lập di chúc không cho người đó hưởng thừa kế theo di chúc.
Toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở được thừa kế theo di chúc hợp pháp.
Theo quy định của Điều §212 Bộ luật dân sự năm 2015, tài sản chung của hộ gia đình bao gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản chung này phải thông qua thỏa thuận giữa các thành viên gia đình. Trường hợp không có thỏa thuận, áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan, trừ khi có quy định khác tại Điều §213 của Bộ luật Dân sự.
Luật đất đai năm 2013, trong Khoản 29 Điều §3, định rõ rằng hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Vậy việc xác định những người có quyền đối với quyền sử dụng đất trong hộ gia đình được căn cứ vào sổ hộ khẩu tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Người đủ 15 tuổi trở lên trong hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc định đoạt tài sản chung của gia đình. Nếu có đủ căn cứ chứng minh tài sản không phải là tài sản chung của hộ gia đình, mà là tài sản riêng của cá nhân (ví dụ như quyết định cấp cho cá nhân đó, hợp đồng tặng riêng cho cá nhân đó, văn bản thể hiện cá nhân được thừa kế riêng...), thì chỉ cá nhân đó có quyền định đoạt tài sản và các thành viên khác trong hộ gia đình không tham gia việc định đoạt tài sản đó.
Nếu bạn là con của bố, bạn vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế của bố mẹ bạn, ngay cả khi không có tên trong hộ khẩu. Việc quyết định tài sản thừa kế của gia đình đòi hỏi sự thỏa thuận giữa các thành viên trong hộ gia đình. Tuy nhiên, việc có hay không có tên trong sổ hộ khẩu không ảnh hưởng đến quyền thừa kế của bạn nếu bạn là người thừa kế theo pháp luật. Điều §651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, con nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột và nhiều trường hợp khác. Những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, và những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc bị truất quyền hưởng di sản.
Nguồn: Website Minh Khuê
Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá