Người trẻ TQ đổ mua xổ số; Cơn sốt 'gom vàng'; Ác mộng giao thông ở Ấn; Hiệp định kinh tế Nga-TQ; Hậu quả tái chế nhựa

Người trẻ Trung Quốc đổ mua xổ số giữa lúc kinh tế ảm đạm

(Ảnh minh họa).

Các chuyên gia Trung Quốc nhận định, nhiều người trẻ nước này mua xổ số với hi vọng gặp vận may để đổi đời, giữa lúc nền kinh tế đối mặt nhiều thách thức.

Reuters đưa tin, dữ liệu công bố ngày 24/5 cho thấy, doanh số ngành xổ số Trung Quốc vào tháng 4 đã tăng lên mức cao nhất trong 10 năm qua. Giới quan sát nhận định, ngày càng nhiều người trẻ Trung Quốc muốn mua vé số để tìm cách đổi đời trong lúc nền kinh tế nước này đang trong tình trạng tương đối ảm đạm.

Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang phục hồi sau ba năm áp lệnh hạn chế nghiêm ngặt vì Covid-19. Trung Quốc tăng trưởng 4,5% trong quý đầu tiên, nhưng dữ liệu tháng 4 cho thấy đà phục hồi đang yếu đi và tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ lên mức cao kỷ lục 20,4%.

Doanh thu từ xổ số trên toàn quốc trong tháng 4 đã tăng 62% so với cùng kỳ năm ngoái, lên mức 50,33 tỷ nhân dân tệ (7,28 tỷ USD) - cao nhất trong thập niên vừa qua. Trong 4 tháng đầu năm, mức doanh thu này là 175,15 tỷ nhân dân tệ, tăng 49,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Freddie Xiao, một cô gái 28 tuổi, làm cho một công ty ở Bắc Kinh cho biết: "Kiếm được một triệu tệ không vui bằng trúng số một triệu".

Trên thực tế, Xiao, người mua vé số ở một cửa hàng tại thủ đô Bắc Kinh, lo lắng về viễn cảnh có thể mất việc nên muốn tìm kiếm vận may để không phải rơi vào một tương lai bất định.

Một số chuyên gia cho biết, diễn biến ảm đạm của nền kinh tế có liên quan tới việc doanh thu từ xổ số tăng. Yi Xianrong, một nhà kinh tế tại Đại học Thanh Đảo, nhận định: "Mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, ôm mộng trở nên siêu giàu chỉ sau một đêm với một lượng tiền nhỏ bỏ ra ban đầu".

Tuần này, một người bán hàng rong ở Nghĩa Ô, tỉnh Chiết Giang, miền đông Trung Quốc, đã ăn mừng trúng giải độc đắc xổ số trị giá 26 triệu nhân dân tệ bằng cách đập phá gian hàng giúp người này mưu sinh trong nhiều năm qua. Câu chuyện đã gây "bão" trên mạng xã hội Trung Quốc.

(Nguồn: Dân Trí)

Cơn sốt 'gom' vàng đang bùng lên trên toàn cầu: Người dự đoán giá có thể lên 3.300 USD, kẻ lo sợ sẽ không còn tài sản nào để trú ẩn

Lạm phát liên tục ở mức cao đang thúc đẩy nhu cầu đối với vàng. Trong khi đó, những bất ổn về địa chính trị cũng đang khiến các NHTW trên thế giới nhanh chóng "gom" kim loại quý này.

Trong một căn hầm có hệ thống an ninh nghiêm ngặt ở Mayfair, London, nơi có tủ kính đủ dày để chống đạn cùng 4 phòng có bảo vệ canh gác suốt ngày đêm, một số người giàu nhất thế giới đã đến để cất giữ vàng.

Các két sắt nhỏ bên trong có mức phí thuê tới 12.000 bảng/năm, được dự kiến sẽ được lấp đầy vào cuối năm nay khi ngày càng nhiều khách hàng đến để trữ vàng. Đây là dấu hiệu cho thấy thời kỳ khó khăn sắp đến.

Ashok Sewnarain, CEO của IBV Internationa Vaults, công ty vận hành kho két này, cho biết khách hàng đang ngày càng cảnh giác với “trật tự thế giới mới”. Họ không tin tưởng vào các ngân hàng, lạm phát cao và sự chia rẽ trên toàn cầu, cũng như lượng dự trữ tiền tệ trên thế giới.

Cơn sốt mua vàng của giới thượng lưu toàn cầu đang được thể hiện ở ngay động thái của các NHTW tại những thị trường mới nổi. Năm ngoái, họ đã mua 1.079 tấn vàng thỏi - mức cao nhất kể từ năm 1950. Theo đó, giá vàng giao dịch ở gần mức cao kỷ lục với 2.072 USD/ounce kể từ cuối tháng 3. Nhiều nhà đầu cơ đang nín thở chờ đợi mức đỉnh mới sẽ được thiết lập.

Từ lâu, vàng đã là tài sản an toàn trong thời kỳ hỗn loạn. Điều này cho đến nay vẫn đúng, khi đại dịch bùng phát, mâu thuẫn Nga - Ukraine nổ ra, lo ngại lạm phát, nợ toàn cầu gia tăng, lãi suất cao và những bất ổn của ngành ngân hàng. Tất cả những yếu tố này đã khiến giới đầu tư lại tìm đến các loại tài sản an toàn, trong đó có vàng.

Ngoài ra, một yếu tố địa chính trị khác cũng được giới đầu tư cân nhắc, khi các nước đang phát triển cảnh giác với sức mạnh của đồng bạc xanh. Sau khi phương Tây trừng phạt Nga bằng cách đóng băng 300 tỷ USD dự trữ ngoại hối của Nga bằng USD, đồng euro và bảng Anh, nhiều nước nắm giữ USD đã lo ngại và đa dạng hoá kho dự trữ, mua thêm vàng.

Một số quan chức NHTW, nhà quản lý quỹ và nhà đầu tư nhỏ lẻ đã đặt câu hỏi liệu thế giới có đang chuẩn bị bước vào thời kỳ “mạ vàng” mới hay không. Một số nhà dự báo cho rằng, vàng có thể tăng lên mức kỷ lục là 3.300 USD/ounce, tương đương năm 1980 khi lạm phát tăng phi mã do ảnh hưởng của giá dầu và bất ổn ở Trung Đông.

Vậy, liệu vàng sẽ còn được ưa chuộng trong bao lâu?

Vàng là thước đo nỗi sợ

Động lực chính thúc đẩy giá vàng chính là mối lo ngại với các tài sản khác. Khi thị trường biến động hơn trong vài tháng gần đây, nhà đầu tư quay trở lại với vàng. Kể từ tháng 11, vàng tăng 20% và giao dịch gần mốc 2.000 USD sau khi 3 ngân hàng khu vực của Mỹ sụp đổ và UBS tiếp quản Credit Suisse.

Theo Ross Norman, CEO của Metals Daily, cho biết vàng thể hiện tâm lý sợ hãi trên thị trường tài chính.

Đối với một số người, đây là thời điểm họ thể hiện niềm tin về nền kinh tế toàn cầu. David Franks, một chủ nhà hàng ở Anh, đang nắm giữ hơn 2 triệu bảng dưới dạng vàng thỏi, vàng xu và cổ phiếu ngành khai thác nhưng không đầu tư vào TTCK.

Franks nói: “Đến lúc nào đó, thế giới sẽ thức tỉnh trước việc Mỹ vỡ nợ. Tôi không thấy câu trả lời nào khác cho vấn đề này ngoài vàng và bạc. Nếu nắm giữ từ năm 2008 mà thấy không hiệu quả, thì yên tâm, một ngày nào đó nó sẽ tăng giá trị.”

Franks lo sợ rằng thị trường sẽ thiếu các loại tài sản có thể đầu tư ngoài vàng khi mối lo về khủng hoảng và thảm hoạ bùng lên. Tâm lý tương tự càng được thể hiện rõ khi các cuộc đàm phán về trần nợ của Mỹ vẫn bế tắc.

Mark Bristow, chủ tịch và CEO của Barrick Gold, nhà sản xuất vàng lớn thứ 2 thế giới, cũng đồng tình với Franks. Ông lập luận rằng các NHTW trên thế giới đã không còn lựa chọn, “ông thần” lạm phát đã thoát khỏi chiếc bình và các quốc gia mới nổi phải đối mặt với nguy cơ rơi vào vòng xoáy nợ USD.

Nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào đồng USD

Ngoài nhà đầu tư nhỏ lẻ, việc vàng tăng giá một phần được thúc đẩy bởi xu hướng đa dạng hoá khỏi đồng USD. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhiều quốc gia đã nỗ lực đa dạng hoá kho dự trữ. Theo đó, tỷ lệ dự trữ ngoại hối toàn cầu đối với đồng USD giảm từ hơn 70% trong năm 2000 xuống dưới 60% hiện nay. Sự thay đổi đó được Nga, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ dẫn đầu.

Đối với Nga, các biện pháp trừng phạt của phương Tây chỉ khiến họ càng thêm phụ thuộc vào vàng. Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, Tổng thống Vladimir Putin đã đánh giá dự trữ vàng và kho dự trữ ngoại tệ vững chắc của Nga là “tấm đệm an toàn”. 3 năm sau, NHTW âm thầm tăng tỷ trọng của kim loại quý trong kho dự trữ quốc tế của mình. Hiện tại, vàng chiếm khoảng 25% trong số 600 tỷ USD dự trữ của Nga, tăng gần gấp 6 lần kể từ năm 2007.

Trong khi đó, PBOC có lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới với khoảng 3,2 nghìn tỷ USD và thông báo liên tục mua thêm vàng trong 6 tháng. Song, nhiều người trong ngành cho rằng PBOC mua nhiều hơn số liệu được công bố chính thức.

Oliver Ramsbottom, thành viên ban lãnh đạo của McKinsey, nhận định việc này có thể giúp Trung Quốc thách thức đồng bạc xanh. Ông nói: “Việc Trung Quốc liên tục mua vàng có thể hiểu là một phần trong chính sách dài hạn nhằm nới lỏng việc kiểm soát vốn, theo đó tăng sức cạnh tranh của đồng NDT với USD.”

Các nền kinh tế gặp khó khăn, thường nợ nhiều bằng đồng USD, cũng chuyển sang “gom” vàng. Trước khi vỡ nợ vào tháng 12, Ghana, quốc gia sản xuất vàng lớn thứ 6 thế giới, đã đề xuất việc thanh toán hàng nhập khẩu bằng vàng thỏi. Một số quốc gia khai thác khác như Zimbabwe đang cho ra mắt đồng tiền số mới được hỗ trợ bằng vàng để ứng phó với tình trạng đồng nội tệ mát giá.

Sau cơn sốt vàng sẽ là gì?

Khi vàng đang “toả sáng”, thì khó có thể dự đoán đà tăng này sẽ kéo dài bao lâu. Các chuyên gia dự báo đôi khi được so sánh với những người ngồi ghế quay mặt về phía sau, họ chỉ có thể nhìn thấy những gì đã xảy ra chứ không phải những gì ở phía trước.

Nguyên nhân một phần là do 12 nghìn tỷ USD vàng đã được khai thác, với nguồn cung tăng 2% vào năm ngoái khi các yếu tố “co và kéo” giá vàng trở nên phức tạp. Giá vàng đã giảm tức mức 1.920 USD vào năm 2011 sau khủng hoảng tài chính xuống còn gần 1.200 USD vào 2 năm sau.

Trong ngắn hạn, yếu tố chính quyết định giá vàng sẽ là lộ trình cân bằng giữa việc duy trì nền kinh tế lành mạnh và kiểm soát lạm phát của Fed. Đây sẽ là điểm mấu chốt cho việc liệu các nhà quản lý tài sản có đổ xô mua vàng cùng nhà đầu tư nhỏ lẻ hay các NHTW hay không, sau 10 tháng liên tiếp các quỹ ETF vàng chứng kiến dòng outflow (tính đến tháng 3).

Tuần trước, quan chức Fed phát tín hiệu rằng sẽ không ngại tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Động thái này khiến giá vàng giảm xuống khoảng 1.970 USD. Việc mức tăng 4,9% từ tháng 4 hạ nhiệt cùng mục tiêu đưa lạm phát xuống 2% được dự kiến sẽ khiến tâm lý hứng khởi với vàng sụt giảm. Thoả thuận về trần nợ của Mỹ nếu được thông quá cũng có thể gây áp lực cho giá vàng.

Về lâu dài, nhu cầu với kim loại quý này có thể giảm do tình hình tài chính của ngành khai thác vàng, đặc biệt là lĩnh vực này đang chịu áp lực lớn trong việc giảm lượng khí thải, tác động đến môi trường và phải trở nên minh bạch hơn.

Vàng là một trong số những nguyên tố ít phản ứng nhất, cũng không có vai trò trực tiếp trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Chỉ 8% vàng được sử dụng trong các ứng dụng như công nghệ, y học và công nghiệp, phần còn lại là dành cho trang sức và đầu tư. Ngoài ra, xu hướng giảm khí thải carbon cũng gây khó khăn cho các công ty khai thác vàng, khi nhiều nhà nghiên cứu đang kêu gọi hạn chế hoạt động này vì tác động xấu đến môi trường.

Dù Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) đang lên kế hoạch cho một đồng stablecoin được hỗ trợ bởi vàng, song Andreas Habluetzel, CEO của Degussa Goldhandel, cửa hàng vàng ở châu Âu, cho rằng những thách thức về số hoá và thế hệ sẽ hạn chế đà tăng giá của vàng.

Dẫu vậy, những người ủng hộ tiền số cũng có ít nhất điểm chung với những người “mê vàng”. Họ cho rằng hệ thống đồng tiền pháp danh sẽ bị phá vỡ và tạo ra một thảm hoạ.

Hơn nữa, khi nhiều mối rủi ro vẫn hiện hữu trong nền kinh tế toàn cầu, cùng với việc cổ phiếu, trái phiếu có xu hướng đảo ngược đà tăng trong 20 năm qua, thì nhiều người vẫn tiếp tục đặt niềm tin vào kim loại quý này.

(Nguồn: CafeF)

Ấn Độ và cơn ác mộng giao thông đường bộ

(Ảnh minh họa).

Theo Ngân hàng Thế giới, tai nạn giao thông đường bộ ở Ấn Độ gây ra cái chết và tàn tật cho hơn 900.000 người mỗi năm, nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Kèm theo đó là thiệt hại lên đến 156 tỉ USD.

Vào đầu năm nay, Bộ trưởng Giao thông đường bộ Ấn Độ Nitin Gadkari kêu gọi nỗ lực giảm 50% trường hợp tử vong do tai nạn giao thông đường bộ vào năm 2025.

Tuy nhiên, trang Bloomberg nhận định không dễ đạt được mục tiêu trên do một loạt thách thức. Trước hết là chuyện thiết kế đường sá.

Ông S.Velmurugan, chuyên gia tại Viện Nghiên cứu đường bộ trung tâm ở thủ đô New Delhi, cho biết khâu kiểm tra an toàn của thiết kế đường sá trước khi bắt đầu xây dựng không được quan tâm nhiều.

Các nhà phát triển dựa vào phần mềm để thiết kế đường sá mà không kiểm tra xem liệu chúng có đáp ứng nhu cầu của mọi người sử dụng hay không, cũng như bảo đảm không có thiếu sót nào... Theo ông S.Velmurugan, nếu các cơ quan chức năng làm nghiêm điều này, số ca tử vong vì tai nạn giao thông đường bộ có thể giảm đến 25%.

Một vấn đề khác là tuân thủ pháp luật. Ấn Độ có một số quy định giao thông nghiêm ngặt (như việc dùng điện thoại, nồng độ cồn) nhưng việc thực thi còn lỏng lẻo, theo Tổ chức Y tế thế giới.

Những sai phạm phổ biến là không tuân thủ tín hiệu giao thông, chạy xe trong lúc say xỉn, chạy xe máy chở từ 3 người trở lên... Thực tế cho thấy chạy quá tốc độ và đi sai phần đường là các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ.

Bà Preana Arora Singh, Giám đốc điều hành tổ chức People’s Trust ở TP Jaipur, đưa ra một số đề xuất như tập trung nhiều hơn vào điều hòa giao thông (giới hạn tốc độ ở khu vực quanh trường học, khu dân cư…), siết chặt hơn nữa các quy định giao thông, tăng cường giảng dạy an toàn giao thông tại trường học…

Động vật lang thang trên đường cũng đe dọa đến an toàn giao thông đường bộ. Tính đến năm 2019, có tới 5 triệu gia súc và 15 triệu con chó đi lạc ở Ấn Độ. Bà Singh cho rằng chính phủ cần cung cấp thêm nơi trú ẩn an toàn cho động vật đi lạc. Chính quyền địa phương sẽ quản lý những nơi này với sự hỗ trợ của các nhóm cộng đồng.

(Nguồn: Soha)

Nga, Trung Quốc ký hiệp định kinh tế bất chấp sự phản đối của phương Tây

Hôm 24/5, Thủ tướng Nga ký một loạt thỏa thuận với Trung Quốc trong chuyến thăm Bắc Kinh, mô tả mối quan hệ song phương ở mức cao chưa từng thấy, bất chấp sự phản đối từ phương Tây về mối quan hệ của họ khi cuộc chiến ở Ukraine vẫn tiếp diễn, theo Reuters.

Thủ tướng Mikhail Mishustin - quan chức cấp cao nhất của Nga đến thăm Bắc Kinh kể từ khi Moscow xua hàng nghìn quân vào xâm lược Ukraine vào tháng 2/2022 - đã hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường và dự kiến có cuộc gặp với Chủ tịch Tập Cận Bình.

Với cuộc chiến ở Ukraine đã bước sang năm thứ hai và Nga ngày càng cảm thấy sức nặng của các biện pháp trừng phạt của phương Tây, Moscow đang dựa vào Bắc Kinh để được hỗ trợ, nhiều hơn là Trung Quốc dựa vào Nga để đáp ứng nhu cầu về dầu và khí đốt.

Áp lực từ phương Tây không có dấu hiệu giảm bớt, với các tuyên bố cuối tuần của nhóm G-7 chỉ ra cả hai nước về rất nhiều vấn đề liên quan đến Ukraine.

“Ngày nay, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đang ở mức cao chưa từng thấy”, ông Mishustin nói với Lý trong cuộc họp của họ.

Ông nói: “Mối quan hệ này được đặc trưng bởi sự tôn trọng đối với lợi ích của nhau, mong muốn cùng nhau đối phó với các thách thức liên quan đến sự hỗn loạn đang gia tăng trên trường quốc tế và mô hình hùa nhau áp lực của phương Tây”.

“Như những người bạn Trung Quốc của chúng ta nói, đoàn kết có thể giúp dời non lắp biển”.

Các biên bản ghi nhớ được ký kết bao gồm thỏa thuận tăng cường hợp tác đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, hiệp định xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc và một thỏa thuận về hợp tác thể thao.

Các chuyến hàng năng lượng của Nga sang Trung Quốc dự kiến sẽ tăng 40% trong năm nay và hai nước đang thảo luận về việc cung cấp thiết bị công nghệ cho Nga, hãng tin Interfax đưa tin.

Ông Steve Tsang, giám đốc Viện Nghiên cứu Trung Quốc của Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi (SOAS) ở London, cho biết: “Với việc các biện pháp trừng phạt chống lại Nga mang lại cơ hội mới cho Trung Quốc, không có gì ngạc nhiên khi Trung Quốc sẵn sàng tham gia tích cực, nếu không phải là chủ động với Nga về kinh tế, miễn là bất kỳ mối quan hệ nào mà họ tạo ra sẽ không kích hoạt các biện pháp trừng phạt thứ cấp đối với Trung Quốc”.

“Chính sách của Trung Quốc đối với cuộc chiến ở Ukraine là “tuyên bố trung lập, ủng hộ ông Putin và không phải trả giá,” và chuyến thăm tái khẳng định điều đó, đặc biệt là yếu tố ủng hộ Putin,” ông Tsang nói.

“Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với Nga để thực hiện sự hợp tác chung giữa hai nước và thúc đẩy hợp tác thực chất trong các lĩnh vực khác nhau có thể đưa nó lên một tầm cao mới”, ông Lý nói với ông Mishustin.

Thư ký Hội đồng An ninh Nga Nikolai Patrushev, người vừa có cuộc hội đàm hôm 22/5 với ông Trần Văn Thanh (Chen Wenqing), ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, người giám sát cảnh sát, các vấn đề pháp lý và tình báo, cho biết việc thắt chặt quan hệ với Trung Quốc là một hướng đi chiến lược đối với Moscow.

Tuần trước, ông Lý Huy (Li Hui), đặc phái viên của Trung Quốc về các vấn đề Á-Âu, đã đến thăm Ukraine và gặp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy trong chuyến công du châu Âu mà Bắc Kinh coi là nỗ lực thúc đẩy đàm phán hòa bình và giải quyết chính trị cho cuộc khủng hoảng.

Ông Lý Huy dự kiến sẽ đến thăm Nga vào ngày 26/5.

(Nguồn: VOA)

Hậu quả khôn lường ít người biết khi tái chế nhựa

(Ảnh minh họa).

Thay vì giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa, hoạt động tái chế có thể làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm vi nhựa trên thế giới.

Nghiên cứu thực hiện tại một cơ sở tái chế ở Vương quốc Anh gần đây cho thấy khoảng 6-13% nhựa tái chế có thể thải ra nước hoặc không khí dưới dạng vi nhựa. Đây là những hạt có kích thước nhỏ hơn 5 mm được tìm thấy khắp mọi nơi, từ tuyết ở Nam Cực đến trong cơ thể con người.

“Đó là một con số lớn nhưng không có ai cân nhắc, chứ chưa nói đến nghiên cứu”, bà Erina Brown, nhà khoa học về nhựa tại Đại học Strathclyde ở Glasgow (Scotland) và là người đứng đầu nghiên cứu trên, cho biết.

Kết quả này làm tăng thêm mối lo ngại rằng tái chế không phải là giải pháp hiệu quả cho vấn đề ô nhiễm nhựa như nhiều người vẫn nghĩ. Theo một số ước tính gần đây, khoảng 9% nhựa sản xuất trên thế giới được tái chế.

Nghiên cứu của bà Brown và đồng nghiệp chỉ được thực hiện tại một cơ sở tái chế nhựa, tuy nhiên các chuyên gia cho rằng không nên xem nhẹ kết quả này, theo Washington Post.

“Đó là một nghiên cứu rất đáng tin cậy”, bà Judith Enck, cựu quan chức cấp cao của Cơ quan Bảo vệ Môi trường dưới thời cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama và hiện là người đứng đầu tổ chức Beyond Plastics, đánh giá. Bà Enck không tham gia vào nghiên cứu này.

“Dù chỉ thực hiện tại một cơ sở, (nghiên cứu) đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại và sẽ tạo động lực thúc đẩy các cơ quan quản lý môi trường mở rộng nghiên cứu tại các cơ sở tái chế nhựa khác”, bà nói thêm.

Quá trình tái chế nhựa diễn ra như thế nào?

Nhựa có nhiều loại khác nhau, trong đó chỉ một số loại nhất định được tái chế hiệu quả tại Mỹ. Trong các cơ sở tái chế, rác thải nhựa thường được phân loại, làm sạch, cắt nhỏ hoặc nghiền nhỏ, sau đó nấu chảy và đúc lại.

“Hoạt động của các cơ sở tái chế nhựa có rất nhiều ma sát và sự mài mòn cơ học”, do đó không có gì ngạc nhiên khi quá trình này có thể tạo ra hạt vi nhựa, bà Enck cho biết.

Bà Brown và nhóm nghiên cứu đã phân tích các mảnh nhựa được tìm thấy trong nước thải từ một sơ sở tái chế giấu tên. Họ ước tính cơ sở này có thể tạo ra tới 2,9 triệu kg hạt vi nhựa mỗi năm, tương đương khoảng 13% tổng lượng nhựa tiếp nhận.

Bà Brown cho biết các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy một lượng lớn vi nhựa khi kiểm tra không khí tại cơ sở tái chế này.

Hệ thống lọc nước có hiệu quả?

Nghiên cứu cũng xem xét nước thải của cơ sở tái chế nhựa sau khi lắp đặt các bộ lọc. Thông qua hệ thống lọc nước, ước tính lượng vi nhựa giảm xuống còn khoảng 1,36 triệu kg/năm.

Các nhà nghiên cứu ước tính có tới 75 tỷ hạt nhựa trên mỗi mét khối nước thải. Theo bà Brown, phần lớn hạt vi mô nhỏ hơn 10 micromet, tương đương đường kính của tế bào hồng cầu trong cơ thể người, trong đó hơn 80% dưới 5 micromet.

Bà lưu ý rằng cơ sở được chọn nghiên cứu có trang thiết bị “tương đối hiện đại” và đã lắp đặt hệ thống lọc. “Điều quan trọng là phải tính đến việc rất nhiều cơ sở tái chế trên toàn thế giới không có hệ thống lọc nước. Họ có thể trang bị một số hệ thống lọc, nhưng hoàn toàn không có quy định kiểm soát”, bà nói.

Dù các hệ thống lọc hiệu quả có thể giúp giảm lượng hạt vi nhựa thải ra môi trường, các chuyên gia từ Đại học Strathclyde nhận định chúng không phải giải pháp.

Theo nghiên cứu thu thập dữ liệu vi nhựa trong khí quyển từ năm 2017 đến năm 2019 do tác giả Janice Brahney dẫn đầu, khoảng 22.000 tấn vi nhựa tồn đọng trên khắp nước Mỹ mỗi năm.

“Chúng tôi thấy ô nhiễm nhựa tồn đọng ở mọi nơi. Loại nhựa này không mới, đó là những gì chúng ta đã thải ra môi trường trong vài thập kỷ”, bà Brahney nói với CNN.

Các nước cần làm gì?

Bà Enck và các chuyên gia khác nhận định kết quả nghiên cứu cho thấy cần xem xét các vấn đề kỹ lưỡng hơn.

Bà Anja Brandon, nhà phân tích chính sách nhựa của Mỹ tại tổ chức phi lợi nhuận Ocean Conservancy, cũng cho biết: “Những phát hiện này chắc chắn đáng báo động đến mức cần phải điều tra thêm và tìm hiểu rõ vấn đề có thể lan rộng đến mức nào”.

Theo tiến sĩ Brandon, các cơ sở tái chế là nguồn ô nhiễm có thể xác định, không giống việc các hạt vi nhựa tích tụ trong môi trường.

“Chúng ta biết ô nhiễm đang đến từ đâu và có thể thực hiện các biện pháp can thiệp thông qua quy định và quy tắc. Chúng ta có thể hành động, miễn là tìm hiểu thêm một chút”, bà nói thêm.

Bà Brandon cũng chỉ ra rằng nhiều yêu cầu cấp phép về môi trường ở Mỹ dựa trên các tiêu chuẩn đã tồn tại hàng chục năm và cần được cập nhật để phản ánh những thành tựu “khoa học tốt nhất hiện có”.

Trong khi đó, bà Kara Pochiro, phát ngôn viên của Hiệp hội Nhà tái Chế nhựa, cho biết không phải tất cả nhà máy tái chế đều có hệ thống xử lý nước giống cơ sở được chọn nghiên cứu ở Anh. Tuy nhiên, các đơn vị tái chế phải tuân thủ quy định của quốc gia, tiểu bang và địa phương, bao gồm cả luật môi trường.

“Mọi cơ sở tái chế nhựa đều hợp tác chặt chẽ với nhà máy địa phương trong việc lấy mẫu và thử nghiệm với bên thứ ba theo các khoảng thời gian đã được hai bên thống nhất”, bà nói.

Có nên tiếp tục tái chế nhựa?

Bất chấp những phát hiện mới, các chuyên gia nhấn mạnh câu trả lời không phải là ngừng tái chế.

“Nghiên cứu này không nói rằng chúng ta nên ngừng tái chế nhựa”, bà Brandon nhận định. “Chừng nào chúng ta còn tiếp tục sử dụng nhựa, thì tái chế cơ học thực sự là phương pháp tốt nhất cho những vật liệu này, giúp chúng ta không phải sản xuất ngày càng nhiều nhựa”.

Các chuyên gia khẳng định điều quan trọng là mọi người tiếp tục cố gắng giảm sử dụng nhựa.

“Đây không phải là lý do chính khiến chúng ta gặp vấn đề nghiêm trọng về vi hạt nhựa trong môi trường. Nhưng nó có thể là một phần của vấn đề và thật trớ trêu khi nó liên quan đến hoạt động tái chế”, bà nói.

(Nguồn: Zing News)

Xem thêm:
Về trang trước

Chủ đề:

Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá

Việt Nam

Người Việt hải ngoại

EU

Thế giới

Lên đầu trang