Mỹ: Ngân hàng SVB sụp đổ; USD chuyển hướng; Cali đua tích trữ nước; Đạo luật CHIPS và khoa học; So găng TQ tại Phi

Đóng cửa Silicon Valley Bank: Vụ sụp đổ lớn thứ hai trong lịch sử ngân hàng Mỹ

Các nhà quản lý Hoa Kỳ đã đóng cửa Silicon Valley Bank (SVB) và kiểm soát tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng này hôm 10/3. Đây là vụ sụp đổ ngân hàng lớn nhất tại Mỹ kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008.

Các động thái này được đưa ra khi SVB, một ngân hàng chuyên cho các công ty khởi nghiệp - đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ vay vốn, đang cố gắng huy động tiền để khắc phục khoản lỗ do bán trái phiếu bị ảnh hưởng bởi lãi suất cao hơn.

Thông tin này đã khiến khách hàng của họ rút tiền ồ ạt và làm dấy lên lo ngại về tình trạng của ngành ngân hàng.

Các quan chức cho biết họ hành động để "bảo vệ người gửi tiền được bảo hiểm".

Silicon Valley Bank phải đối mặt với tình trạng "không đủ thanh khoản và mất khả năng thanh toán", các nhà quản lý ngân hàng ở California, nơi SVB đặt trụ sở chính, cho biết khi họ tuyên bố tiếp quản.

Công ty Bảo hiểm Tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC), chuyên bảo vệ các khoản tiền gửi lên tới 250.000 USD, cho biết họ đã chịu trách nhiệm về khoảng 175 tỷ USD đang được gửi tại ngân hàng lớn thứ 16 ở Mỹ.

Các chi nhánh của ngân hàng sẽ mở cửa trở lại và khách hàng có tiền gửi được bảo hiểm sẽ có quyền tiếp cận tiền của họ “không trễ hơn sáng 13/3”, đồng thời cho biết thêm rằng số tiền thu được từ việc bán trái phiếu của ngân hàng sẽ được chuyển đến những người gửi tiền không được bảo hiểm.

Các nhà đầu tư lo lắng

Tình hình này đã khiến nhiều công ty có tiền bị ràng buộc tại SVB lo lắng về tương lai của họ.

"Tôi đang trên đường đến chi nhánh để lấy tiền của mình. Tôi đã cố gắng chuyển số tiền đó ra ngoài ngày hôm qua nhưng không thành công. Bạn biết có những lúc mà bạn có thể thực sự gặp rắc rối nhưng bạn không biết chắc? Đây là một trong những lúc đó," một người sáng lập công ty khởi nghiệp (start-up) nói với BBC.

Một nhà sáng lập start-up về chăm sóc sức khỏe khác cho biết: "Đúng ba ngày trước, chúng tôi vừa đạt được một triệu USD trong tài khoản ngân hàng của mình... Và rồi vụ này xảy ra."

Anh ta đã xoay sở để chuyển tiền vào một tài khoản khác 40 phút trước thời hạn. "Giao dịch đang chờ xử lý. Và rồi sáng nay, tiền vẫn ở đó. Nhưng tôi biết những người khác đã làm điều tương tự sau tôi vài phút, và tiền không được chuyển đi."

"Đó là một tình huống điên rồ," anh nói.

Phản ứng của cơ quan quản lý

Sự sụp đổ xảy ra sau khi SVB cho biết họ đang cố gắng huy động 2,25 tỷ USD để bù lỗ do bán tài sản, chủ yếu là trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ, vốn bị ảnh hưởng bởi lãi suất cao hơn.

Tin tức khiến các nhà đầu tư và khách hàng tháo chạy khỏi ngân hàng. Giá cổ phiếu đã chạm mốc giảm kỷ lục trong một ngày lớn nhất vào hôm 9/3, giảm hơn 60% và hơn nữa trong doanh số bán hàng sau giờ làm việc trước khi giao dịch bị tạm dừng.

Lo ngại rằng các ngân hàng khác có thể gặp phải vấn đề tương tự đã dẫn đến việc bán cổ phiếu ngân hàng trên diện rộng trên toàn cầu vào hôm 9/3 và sáng 10/3.

Phát biểu tại Washington hôm 10/3, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho biết bà đang theo dõi "những diễn biến gần đây" tại Silicon Valley Bank và những ngân hàng khác "rất cẩn thận".

Sau đó, bà đã gặp các cơ quan quản lý ngân hàng hàng đầu, nơi Bộ Tài chính cho biết bà bày tỏ rằng "hoàn toàn tin tưởng vào các cơ quan quản lý ngân hàng sẽ có những hành động thích hợp để phản ứng và lưu ý rằng hệ thống ngân hàng vẫn có khả năng phục hồi".

SVB đã không trả lời yêu cầu bình luận.

Được coi là nguồn vốn quan trọng đối với các công ty khởi nghiệp, SVB là ngân hàng đối tác của gần một nửa số công ty công nghệ và chăm sóc sức khỏe đã niêm yết trên thị trường chứng khoán vào năm ngoái, được hỗ trợ bởi liên doanh của Hoa Kỳ.

Khởi đầu là một ngân hàng ở California vào năm 1983, Silicon Valley Bank đã mở rộng nhanh chóng trong thập kỷ qua. Ngân hàng này hiện có hơn 8.500 nhân viên trên toàn cầu, mặc dù hầu hết các hoạt động của họ là ở Mỹ.

SVB đã phải chịu áp lực, vì lãi suất cao hơn khiến các công ty mới thành lập khó huy động tiền hơn thông qua gây quỹ tư nhân hoặc bán cổ phần, và nhiều khách hàng đã rút tiền gửi, những động thái đã xảy ra trong tuần này.

Ở Silicon Valley, dư âm từ sự sụp đổ đã lan rộng khi các công ty phải đối mặt với câu hỏi về ý nghĩa của sự sụp đổ này đối với tài chính của họ.

Ngay cả những doanh nghiệp không có hoạt động kinh doanh trực tiếp cũng bị ảnh hưởng, chẳng hạn như các khách hàng của Rippling, một công ty xử lý phần mềm tính lương và sử dụng SVB. Họ cảnh báo rằng các khoản thanh toán hiện tại có thể bị chậm trễ và cho biết họ đang chuyển hoạt động kinh doanh sang một ngân hàng khác.

Công ty con của SVB tại Anh cho biết họ độc lập, với bảng cân đối kế toán riêng "tách biệt với công ty mẹ và các công ty con khác".

"Chúng tôi nhận thức rằng đây là thời điểm đáng lo ngại đối với khách hàng của chúng tôi, vì vậy chúng tôi đang làm việc không mệt mỏi để hỗ trợ họ và cung cấp thêm thông tin về tình hình", bà Erin Platts, quản lý của SBV tại EMEA (khu vực châu Âu, Trung Đông và châu Phi) cho biết.

Ngoài việc giáng một đòn mạnh vào ngành công nghệ, sự sụp đổ của SVB đã làm dấy lên lo ngại về những rủi ro lớn hơn mà các ngân hàng phải đối mặt, khi lãi suất tăng nhanh ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu.

Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới - bao gồm Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Ngân hàng Trung ương Anh - đã tăng mạnh chi phí cho vay trong năm qua khi họ cố gắng kiềm chế lạm phát.

Nhưng khi lãi suất tăng, giá trị của danh mục đầu tư trái phiếu hiện tại thường giảm.

Những sự sụt giảm đó có nghĩa là nhiều ngân hàng đang phải đối mặt với những khoản lỗ tiềm ẩn đáng kể - mặc dù sự thay đổi về giá trị thường không phải là vấn đề trừ khi những áp lực khác buộc các công ty phải bán cổ phần nắm giữ.

Cổ phiếu của một số ngân hàng lớn của Mỹ đã phục hồi vào ngày 10/3, nhưng việc bán tháo tiếp tục ảnh hưởng tới các ngân hàng nhỏ hơn, buộc Signature Bank và các ngân hàng khác phải tạm dừng giao dịch.

Nasdaq - sàn giao dịch chứng khoán có nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ niêm yết - giảm 1,7% vào cuối ngày, trong khi các chỉ số chứng khoán như S&P 500 giảm 1,4% và Dow giảm gần 1%.

Các chỉ số quan trọng của châu Âu và châu Á cũng giảm, với FTSE 100 giảm 1,6%.

Alexander Yokum, nhà phân tích nghiên cứu vốn chủ sở hữu tại CFRA (công ty nghiên cứu đầu tư độc lập lớn nhất trên thế giới), cho biết các ngân hàng chuyên về các ngành đơn lẻ được coi là dễ rút tiền nhanh chóng, giống như trong trường hợp của SVB.

Theo nhà phân tích: “Silicon Valley Bank sẽ không mất tiền nếu họ không hết tiền mặt để trả lại cho khách hàng của mình. "Vấn đề là mọi người muốn có tiền và họ không có tiền - họ đã đầu tư và những khoản đầu tư đó đã lỗ."

"Tôi biết có rất nhiều nỗi sợ hãi, nhưng nó chắc chắn là đặc thù của các công ty," ông nói.

"Các doanh nghiệp bình thường sẽ ổn thôi," nhưng ông Yokum nói thêm rằng các công ty công nghệ có thể sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn. “Và điều đó không tốt.”

(Nguồn: BBC)

USD chuyển hướng

Các tài sản khác trên thị trường tài chính cũng giảm mạnh sau khi dữ liệu việc làm được công bố cũng như lo lắng về sự hỗn loạn trong lĩnh vực ngân hàng ở Mỹ.

Đồng USD suy yếu vào thứ Sáu (10/3) sau khi dữ liệu thị trường lao động của Mỹ tháng Hai cho thấy tốc độ tăng lương chậm lại, chứng tỏ áp lực lạm phát bắt đầu giảm, là cơ sở để Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể giữ tốc độ tăng lãi suất ở mức khiêm tốn, và do đó làm giảm sức hấp dẫn của đồng bạc xanh.

Nền kinh tế Mỹ tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm trong tháng Hai, nhưng tốc độ tăng lương chậm lại và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng đã khiến thị trường tài chính lại dấy lên kỳ vọng Fed sẽ tăng lãi suất 50 điểm cơ bản trong kỳ họp chính sách sắp tới – sẽ diễn ra sau 2 tuần nữa.

Thu nhập trung bình mỗi giờ của người lao động Mỹ trong tháng 2 tăng 0,2% (so với tháng liền trước), thấp hơn mức tăng 0,3% của tháng 1, với việc tăng chậm lại ở hầu hết các lĩnh vực. So với cùng kỳ năm trước, tiền lương trong tháng 2 đã tăng 4,6% (cũng thấp hơn mức dự kiến là 4,7%).

Tuy nhiên, đã có 311.000 việc làm mới được tạo ra trong tháng 2, một con số cao bất ngờ vì thị trường dự đoán chỉ là 205.000. Dẫu vậy, mức tăng đó vẫn thấp hơn đáng kể so với 504.000 việc làm mới được tạo ra trong tháng 1.

Thu nhập trung bình mỗi giờ cho tất cả lao động tư nhân tăng 0,2% so với 0,3% trong tháng 1 và nâng con số hàng năm lên 4,6%. Các nhà kinh tế dự kiến ​​thu nhập hàng giờ sẽ tăng 0,3% trong tháng Hai, điều này sẽ làm tăng tiền lương thêm 4,7% hàng năm.

Tất cả các tài sản Mỹ đều giảm sau khi dữ liệu việc làm được công bố.

USD giảm so với tất cả các tiền tệ đối tác chủ chốt, ngoại trừ với USD là không thay đổi. Theo đó, chỉ số Dollar index – so sánh USD với rổ 6 đồng tiền đối tác hàng đầu của Mỹ - giảm 0,6826% trong phiên này. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, DXY vẫn tăng 0,1%, chủ yếu nhờ lực tăng vào những phiên đầu tuần, sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell trong bài điều trần trước Quốc hội đã khẳng định quan điểm sẽ tiếp tục tích cực thắt chặt tiền tệ.

Chỉ số chứng khoán Phố Wall cũng giảm hơn 1% trong phiên thứ Sáu khi các nhà đầu tư tháo chạy vì lo ngại cho sức khỏe của nền kinh tế Mỹ, nhất là lĩnh vực ngân hàng. Trong đó, chỉ số Dow Jones Industrial Average giảm 345,22 điểm, tương đương 1,07%, xuống 31.909,64, chỉ số S&P 500 mất 56,73 điểm, tương đương 1,45%, xuống 3.861,59 và Nasdaq Composite giảm 199,47 điểm, tương đương 1,76%, xuống 11.138,89. Tất cả 11 ngành thuộc S&P 500 đều giảm điểm. Cổ phiếu bất động sản, giảm 3,3%, dẫn đầu về tốc độ sụt giảm. Tính chung cả tuần, S&P đã mất 4,6%, mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 9.

Lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng đã giảm hơn 22 điểm cơ bản xuống dưới 3,70%, mức giảm mạnh nhất trong vòng 4 tháng. Lợi suất trái phiếu di chuyển ngược chiều với giá của chúng.

Kevin Flanagan, người phụ trách bộ phận chiến lược thu nhập cố định của công ty WisdomTree, cho biết: “Theo ý kiến của tôi, dù sao đi nữa, những xáo trộn trên thị trường đang diễn ra”. "Có những lo ngại tiềm ẩn về căng thẳng ở lĩnh vực ngân hàng."

Việc Tập đoàn tài chính SVB của Mỹ phá sản trở thành vụ phá sản trong lĩnh vực ngân hàng lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008, nguyên nhân được cho là bởi chính sách lãi suất tăng mạnh mẽ của Fed.

Joe Manimbo, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc Convera ở Washington, cho biết đồng USD có thể chỉ dao động trong một phạm vi hẹp vì con đường của Fed để kéo lạm phát trở về mức 2% có thể sẽ gập ghềnh.

Ông Manimbo cho biết: “Khi thị trường điều chỉnh lại kỳ vọng về lãi suất cao nhất, chúng tôi thấy đồng đô la tăng hai bước. Nhưng một khi các dự đoán về lãi suất tăng cao lắng xuống, chúng tôi thấy đồng đô la lùi lại một bước”. "Thị trường đã dự đoán rằng Fed sẽ tạm dừng trong năm nay, nhưng chính xác là khi nào thì vẫn chưa biết."

Đồng euro EUR tăng 0,57% lên 1,064 USD trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng 0,07%; Bảng Anh được giao dịch ở mức 1,2024 USD, tăng 0,83% trong cùng ngày nhưng giảm 0,15% trong tuần.

Đồng yên Nhật kết thúc phiên 10/3 tăng 1,01% lên 134,79 JPY/USD mặc dù trước đó có lúc USD tăng vọt so với yên trong bối cảnh Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) giữ nguyên lãi suất siêu thấp.

Ngày 10/3, trong cuộc họp chính sách cuối cùng của Thống đốc Haruhiko Kuroda trước khi ông từ chức vào tháng Tư, BOJ đã quyết định không thay đổi mức lãi suất cực thấp đã giữ từ nhiều năm nay của mình.

Theo đó, lãi suất ngắn hạn được duy trì ở mức -0,1% và lãi suất trái phiếu 10 năm quanh mức 0%.

Mặc dù hầu hết những người theo dõi thị trường đều dự đoán trước rằng quyết định sẽ "không có gì bất ngờ", nhưng nhiều người cho rằng thời hạn kiểm soát đường cong lợi suất trái phiếu (YCC) của BOJ đã sắp kết thúc.

Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc kéo dài đà giảm giá so với USD đến phiên cuối cùng của tuần để chốt một tuần giảm giá do thị trường lo ngại Fed tăng lãi suất mạnh hơn nữa sẽ gây áp lực lên đồng nội tệ của Trung Quốc.

Trên thị trường giao ngay, đồng nhân dân tệ nội địa kết thúc phiên thứ Sáu giảm 47 pip xuống 6,9677 CNY. Tính chung cả tuần, CNY giảm gần 1%. Các nhà giao dịch đang theo dõi chặt chẽ các chuyển động của đồng USD, vì điều đó có khả năng đẩy đồng nhân dân tệ vượt qua ngưỡng tâm lý quan trọng là 7 CNY.

Các thị trường từ lâu đã coi mốc đó là một ngưỡng, nếu vi phạm ngưỡng này thì CNY có thể sẽ lao dốc mạnh và gây rủi ro cho dòng vốn chảy ra ngoài.

Các nhà phân tích của ANZ cho biết: “Chúng tôi kỳ vọng PBOC (Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa) sẽ bơm 400 tỷ nhân dân tệ (57,42 tỷ USD) thông qua cơ sở cho vay trung hạn (MLF) vào tuần tới để thanh khoản chung sẽ vẫn cân bằng”.

Trong tuần tới, thị trường tiền tệ sẽ tập trung theo dõi dữ liệu lạm phát, dự kiến công bố vào ngày 14 tháng 3, là một chỉ số khá quan trọng trong quyết sách của Fed.

(Nguồn: CafeF)

California chạy đua tích trữ nước

Lo ngại viễn cảnh hạn hán, cư dân lẫn quan chức California đang chạy đua tích trữ nước từ dòng chảy trên mặt đất, bắt nguồn từ lượng mưa và tuyết rơi kỷ lục nhiều tuần gần đây.

Neil McIsaac có một thứ mà nhiều nông dân chăn nuôi bò sữa ở đây không có: Hệ thống hứng nước mưa có thể cung cấp nước dự phòng cho đàn gia súc của ông khi các hồ chứa địa phương cạn kiệt. Việc này từng xảy ra vào năm ngoái.

Hiện tại, ông và nhiều người khác tham gia nói dự án này đã chứng minh được giá trị của mình. Ông McIsaac cho biết hệ thống thu được 670.000 gallon nước tính đến hiện tại, đủ để làm dịu cơn khát của 700 con bò trong một tháng.

“Đây thực sự là chủ đề bàn tán của thị trấn”, Scott Dunbar - Giám đốc chương trình Marin Agricultural Land Trust, tổ chức tài trợ dự án - cho biết.

Theo Sở Tài nguyên Nước của California, bang đang chứng kiến quá nhiều tuyết rơi, thậm chí sắp phá vỡ kỷ lục trong 4 thập niên qua về lượng tuyết rơi trong mùa đông. Mọi chuyện vẫn chưa dừng lại, khi Cơ quan Thời tiết Quốc gia Mỹ cho biết dòng sông khí quyển khác có thể mang theo mưa và lũ lụt đến Bắc California từ ngày 9/3.

Trước tình hình này, lo lắng cảnh hạn hán thường xuyên tại California, nhiều người dân cùng các nhà quản lý nước tại bang và địa phương đang gấp rút trữ càng nhiều nước từ dòng chảy trên mặt đất càng tốt, trước khi nước trôi ra biển, theo Wall Street Journal.

Nguồn tài nguyên cần tận dụng thông minh

Lớp băng tuyết trên núi tại khu vực California gần gấp đôi mức bình thường vào thời điểm này trong năm, trong khi hầu hết hồ chứa đều đầy hoặc vượt quá công suất trước đây. Hôm 3/3, Sở Tài nguyên Nước California khảo sát thủ công hàng tháng tại Trạm Phillips gần hồ Tahoe ghi nhận độ sâu kỷ lục gần 300 cm.

Những chuyên gia về nước cho biết dòng chảy từ mưa và tuyết là nguồn cung mới tiềm năng lớn cho các thành phố và trang trại, nơi trước đây đối mặt với tình trạng hạn chế nguồn cung về nước nghiêm trọng.

Theo National Geographic, dòng chảy trên mặt đất xảy ra khi đất không hấp thụ được hết nước. Nước dư thừa chảy trên mặt đất và vào các con lạch, suối hoặc ao gần đó. Dòng chảy tự nhiên thường thấy nhất là tuyết tan. Ngoài ra, sông băng và mưa cũng góp phần tạo nên dòng chảy tự nhiên.

Peter Gleick - đồng sáng lập và thành viên cấp cao của Viện Thái Bình Dương ở Oakland (California) - ước tính khu vực Nam California và Vùng Vịnh San Francisco có thể có lượng nước từ 518-777 triệu lít, đủ để cung cấp cho 1,7-2,5 triệu người trong một năm.

Ông Gleick cho biết thậm chí, bang có thể tích thêm nước hơn nữa từ các khu vực canh tác như Thung lũng Trung tâm. “Đó là nguồn tài nguồn mà nếu tận dụng thông minh, chúng tôi có thể lấy nhiều hơn nữa”, ông nói.

Nhiều nhóm đánh cá và bảo vệ môi trường chỉ trích các quan chức California vì để quá nhiều nước chảy ra đại dương. Chẳng hạn, theo phân tích của Sites Project Authority, nếu hồ chứa Sites hoàn thành xây dựng, nó sẽ thu được hàng trăm triệu lít nước mưa trong 6 tuần đầu tiên của năm nay.

Trong khi đó, nhiều người lo lắng nỗ lực tích trữ nước có thể làm tổn thương những vùng đất ngập nước và sông ngòi. John McManus - Chủ tịch Hiệp hội Cá hồi Golden State - cho biết cá hồi và nhiều loài bị đe dọa khác có thể đối mặt với tình trạng có quá ít nước.

“Điều này xảy ra vào thời điểm số lượng cá hồi ít hơn bình thường. Không có cá hồi, hàng chục nghìn việc làm trong ngày này sẽ biến mất”, ông McManus nói.

Gom mọi thứ có thể

Sở Tài nguyên Nước California đang nhanh chóng phê duyệt các dự án, dự kiến bơm ít nhất 1.600 tỷ gallon vào các tầng chứa nước ngầm, cũng như nỗ lực mở rộng các hồ chứa trên mặt đất.

Các quan chức thành phố Los Angeles cho biết họ đã điều hướng 25 tỷ gallon cho đến mùa đông này, đủ đáp ứng nhu cầu hàng năm của 308.000 hộ gia đình.

Động thái này được thực hiện là nhờ một số cải tiến, như đào sâu các lưu vực ở Thung lũng San Fernando để chúng chứa nhiều nước mưa hơn, theo Sabrina Tsui - quản lý Sở Điện nước Los Angeles.

“Mục tiêu của chúng tôi là gom hết những gì có thể”, bà Tsui nói.

Santa Monica đã lấp đầy hai bể ngầm, mỗi bể chứa khoảng 1,6 triệu gallon, sau khi những cơn bão lớn đổ bộ vào cuối tháng 2. Sunny Wang - quản lý tài nguyên nước của thành phố - cho biết đó chỉ là một phần nhỏ lượng nước chảy trên đường phố và vỉa hè vào Vịnh Santa Monica.

“Thật tuyệt vời khi chúng tôi thu được nước, nhưng đó mới chỉ là bước khởi đầu”, ông Wang nói.

Khu Thủy cục Thung lũng Santa Clara nằm trong số nhiều cơ quan sử dụng các đập bơm hơi để giữ thêm nước. Jason Araujo - giám sát viên tài nguyên nước của San Jose - cho biết họ có thể bơm phồng các con đập làm bằng cao su, tạo thành một cái ao, sau đó xì hơi con đập nếu lũ lụt xảy ra.

Các dự án thủ công như ông McIsaac cũng đang lan rộng. Metropolitan Water District của Nam California có chương trình giảm giá cho dân cư, giúp bù đắp chi phí mua thùng chứa nước mưa. Các quan chức từng cấm cư dân thu thập nước mưa tại nhà, nhưng giờ quy định này không còn nữa.

Tại hạt Marin, ông McIsaac, cùng với một nông dân chăn nuôi bò sữa khác và một chủ trang trại, đã tham gia chương trình thu gom dòng chảy trên mặt đất.

Gia đình ông McIssac nhận được 15.000 USD bù đắp cho khoản phí 40.000 USD biến mái nhà kho thành bể trữ nước. Mưa rơi xuống mái nhà và được dẫn vào hai bể chứa, mỗi bể chứa 5.000 gallon. Máy bơm sau đó đưa nước đến một hồ chứa gần đó trong trang trại.

Trước đó, ông McIsaac phải vận chuyển nước từ Petaluma cách đó 24 km trong hơn một năm, khi hồ chứa của ông cạn kiệt trong đợt hạn hán.

“Ngày nào cũng vậy, không nghỉ ngày nào”, ông nói về việc vận chuyển nước.

(Nguồn: Zing News)

Đạo luật CHIPS và Khoa học: Tham vọng giành vị trí dẫn đầu ngành bán dẫn của Mỹ

Mới đây, Mỹ đã công bố nội dung chi tiết Đạo luật CHIPS và Khoa học với nhiều biện pháp quyết liệt nhằm trở lại vị trí dẫn đầu ngành sản xuất chất bán dẫn.

Đạo luật CHIPS và Khoa học là một kế hoạch đầy tham vọng của chính phủ Mỹ nhằm đưa nước này quay lại thời hoàng kim, trở thành nước dẫn đầu không chỉ về các phát minh và sở hữu bản quyền công nghệ, mà còn là nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu trong thập niên tới.

Đạo luật này đã được Tổng thống Mỹ Joe Biden ký ban hành thành luật từ ngày 9/8/2022 và vào thời điểm đó, quy mô của đạo luật lên tới 280 tỷ USD, trong đó riêng phần dành cho sản xuất chất bán dẫn đã lên tới 39 tỷ USD, một khoản tiền rất lớn.

Các điều kiện của Đạo luật CHIPS và Khoa học

Tuy nhiên đến ngày 28/2, Mỹ mới công bố các điều kiện chi tiết của đạo luật và đúng như câu nói quen thuộc của người dân Mỹ: "Không có bữa trưa nào là miễn phí", đạo luật đã đi kèm với rất nhiều ràng buộc đối với các công ty muốn nhận trợ cấp khi đặt nhà máy sản xuất tại Mỹ.

Để nhận được gói trợ cấp từ đạo luật CHIPS và Khoa học, các công ty đăng ký cần thỏa mãn 2 điều kiện quan trọng.

Thứ nhất, chính phủ Mỹ yêu cầu các công ty muốn nhận trợ cấp trên 150 triệu USD phải công khai kế hoạch đầu tư cụ thể, bao gồm cả dòng tiền, lợi nhuận, và trao cho các cơ quan giám sát của Mỹ quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu trong hoạt động sản xuất. Đây là yếu tố nhạy cảm với các công ty sản xuất chip nước ngoài như Hàn Quốc do lo ngại tiết lộ bí mật công nghệ. Đồng thời, nếu công ty thu về lợi nhuận vượt mong đợi, họ sẽ phải nộp lại 75% số tiền trợ cấp cho chính phủ Mỹ.

Thứ hai, Mỹ tái khẳng định nguyên tắc loại các doanh nghiệp có ý định tăng quy mô sản xuất và đầu tư ở các quốc gia gây lo ngại về an ninh. Điều đó có nghĩa là để nhận được trợ cấp, các công ty sản xuất bán dẫn không thể mở rộng đầu tư ở Trung Quốc trong vòng 10 năm, một trong những cứ điểm sản xuất chip lớn nhất thế giới.

Lo ngại về điều kiện khắt khe từ gói trợ cấp tại Mỹ

Nhiều công ty công nghệ lớn đang lo ngại về các điều kiện khắt khe từ gói trợ cấp tại Mỹ, trong đó có việc phải chia sẻ các thông tin về sản xuất với chính phủ Mỹ.

Mỹ yêu cầu các công ty công nghệ chia sẻ thông tin để nhận được trợ cấp. Theo Bộ thương mại Mỹ, điều này nhằm bảo vệ từng đồng tiền thuế của người dân.

Đạo luật CHIPS và Khoa học hướng tới 2 mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh quốc gia của Mỹ. Do đó, các doanh nghiệp muốn nhận được hơn 150 triệu USD tài trợ phải nộp kế hoạch chia sẻ cho chính phủ Mỹ về hoạt động sản xuất, một phần của bất kỳ dòng tiền hoặc lợi nhuận nào vượt quá mức họ đăng ký.

Thêm vào đó, các doanh nghiệp cũng phải cam kết, trong tương lai, sẽ đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn của Mỹ bao gồm chương trình nghiên cứu và phát triển hay hỗ trợ các doanh nghiệp khác tại Mỹ.

Ngoài ra, các công ty nhận hỗ trợ cũng bị cấm sử dụng tiền này để mua cổ phiếu của họ trong 5 năm. Do đó, các doanh nghiệp dù lo ngại, vẫn cần phải đáp ứng các tiêu chí trên. Đến nay, các công ty bán dẫn ở Mỹ đã công bố hơn 40 dự án mới, với trị giá khoảng 200 tỷ USD.

Các công ty Hàn Quốc quan ngại về CHIPS và Khoa học

Đến thời điểm này, Hàn Quốc là nước đã công khai bày tỏ lo ngại về các điều kiện đối với gói trợ cấp của chính phủ Mỹ, do sản xuất chip là một trong những lĩnh vực chủ lực của kinh tế Hàn Quốc, đồng thời các công ty Hàn Quốc cũng đang có rất nhiều hoạt động hợp tác, đầu tư tại Trung Quốc.

Theo Thời báo Phố Wall, các công ty bán dẫn hàng đầu của Hàn Quốc là Samsung Electronics và SK Hynix đang rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Việc không đầu tư vào chuỗi cung ứng bán dẫn tại Mỹ hoặc không nhận trợ cấp có thể dẫn tới những rạn nứt trong quan hệ giữa các doanh nghiệp Hàn Quốc với giới chức Mỹ.

Trong khi đó, việc nhận trợ cấp có thể dẫn tới tình trạng mất nhiều hơn được, do các yêu cầu khắt khe về chia sẻ lợi nhuận và cung cấp thông tin.

"Điều khoản chia sẻ lợi nhuận về cơ bản sẽ lấy lại những gì mà chính phủ Mỹ đã cho đi thông qua các khoản trợ cấp. Yêu cầu về cung cấp thông tin cũng khiến các doanh nghiệp lo ngại. Đúng là mọi chính sách trợ cấp đều có đi kèm theo các điều kiện tiên quyết, nhưng những gì mà chính phủ Mỹ yêu cầu ở đây là quá nhiều và vượt quá mức cần thiết", ông Kim Yang Paeng, Nhà nghiên cứu cấp cao, Viện Kinh tế công nghiệp và Thương mại Hàn Quốc, đánh giá.

Bên cạnh đó, yêu cầu về việc không tiến hành nghiên cứu chung hoặc chuyển giao công nghệ trong vòng 10 năm với các quốc gia mà Mỹ cho là đáng lo ngại, cũng sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các công ty Hàn Quốc tại thị trường quan trọng Trung Quốc.

Theo Nikkei, cả Samsung và SK đều sản xuất khoảng 40% các loại chip nhớ quan trọng tại các nhà máy ở Trung Quốc, nơi sử dụng những thiết bị, công nghệ tiên tiến nhất.

Dự kiến, Bộ trưởng Năng lượng, Công nghiệp và Thương mại Hàn Quốc sẽ đến Washington trong tuần này để gặp gỡ các quan chức chính phủ Mỹ và thảo luận về những rủi ro mà các quy định mới có thể mang lại cho doanh nghiệp nước này.

"Có nhiều điều kiện bất thường, hoàn toàn khác với những khoản trợ cấp mà chúng tôi thường cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đang thảo luận về các điều khoản này với các đối tác Mỹ", ông Lee Chang Yang, Bộ trưởng Năng lượng, Công nghiệp và Thương mại Hàn Quốc, cho biết.

Việc giải quyết những bất đồng với Hàn Quốc sẽ là thách thức lớn chính quyền Tổng thống Biden cần giải quyết, để có thể vừa thúc đẩy chuỗi cung ứng bán dẫn tại Mỹ, vừa thuyết phục được các đồng minh tham gia vào nỗ lực hạn chế ngành công nghiệp bán dẫn Trung Quốc.

Tầm nhìn của nước Mỹ đối với ngành bán dẫn trong thập niên tới

Có thế thấy chính quyền Mỹ muốn tận dụng tối đa những lợi ích gói hỗ trợ cho ngành bán dẫn mang lại. Họ vừa muốn thu hút đầu tư vào Mỹ, vừa muốn quản lý chặt chẽ các hoạt động sản xuất bán dẫn trên đất Mỹ.

Đây cũng chính là chiến lược để dẫn đầu trong ngành bán dẫn chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đã vạch ra. Đạo luật CHIPS và Khoa học là một chiến lược rất quan trọng để Mỹ giành lại vị thế vốn có trong ngành sản xuất chất bán dẫn. Vậy tầm nhìn của nước Mỹ đối với ngành bán dẫn trong thập niên tới sẽ là như thế nào?

Đi kèm với Đạo luật CHIPS, Mỹ cũng đưa ra tầm nhìn đối ngành công nghiệp quan trọng này trong 10 năm tới, đó là Mỹ hướng tới đạt được 4 mục tiêu lớn. Một là, Mỹ có ít nhất 2 cụm quy mô lớn gồm các nhà máy logistics hàng đầu. Hai là, Mỹ sẽ là nơi có nhiều có sở đóng gói tiên tiến, khối lượng lớn. Thứ ba là các nhà máy có trụ sở tại Mỹ sẽ sản xuất các chip bộ nhớ hàng đầu, khối lượng lớn theo các điều kiện cạnh tranh về kinh tế. Cuối cùng, Mỹ sẽ tăng năng lực sản xuất đối với thế hệ chip hiện tại, duy trì vị thế dẫn đầu trong công nghệ chất bán dẫn hỗn hợp và các loại chip đặc biệt khác.

Để hiện thực hóa kế hoạch đầy tham vọng này, chính quyền Mỹ đang tích cực thúc đẩy đầu tư tư nhân, tăng cường hợp tác với các đối tác, đồng minh, tập trung xây dựng lực lượng lao động chất lượng cao; cắt giảm thời gian và chi phí xây dựng nhà máy, cũng như thực thi các hàng rào bảo vệ. Điều này đều hướng tới mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất là đưa Mỹ trở lại vị trí dẫn đầu về sản xuất chất bán dẫn toàn cầu.

Có thể thấy Mỹ đang tận dụng triệt để vị thế của cường quốc kinh tế mạnh nhất cũng như thị trường lớn nhất thế giới để thu hút dòng vốn đầu tư vào ngành sản xuất chip, trong khi làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh. Việc thâm nhập thị trường Mỹ là điều bắt buộc cho các công ty công nghệ nước ngoài để tiếp tục đứng vững trong ngành sản xuất bán dẫn, nhưng cùng với đó sẽ là những đánh đổi và lựa chọn khó khăn.

(Nguồn: VTV)

Cuộc chiến lithium trong pin xe điện: Mỹ và Trung Quốc so găng tại châu Phi

Lithium là một thành phần quan trọng cần thiết của pin xe điện, trở thành mặt trận tiếp theo giữa Washington và Bắc Kinh.

Trong năm 2021, thế giới đã sản xuất 540 nghìn tấn lithium và đến năm 2030, Diễn đàn Kinh tế Thế giới dự báo nhu cầu sẽ cán mốc hơn 3 triệu tấn.

Trữ lượng lithium đã được phát hiện trên toàn bộ lục địa châu Phi, trong đó sản lượng lớn tập trung tại Zimbabwe, Namibia, Ghana, Cộng hòa Dân chủ Congo và Mali. Cầu tăng thúc đẩy sự đi lên của giá lithium. Vào tháng 5/2022, nguyên liệu này có giá cao gấp 7 lần so với đầu năm 2021.

Sự bám rễ của Trung Quốc

Chính phủ Zimbabwe ước tính mỏ khoáng sản Bikita thuộc sở hữu của Trung Quốc, nằm cách thủ đô Harare 300 km về phía nam, có khoảng 11 triệu tấn lithium. Quốc gia này là nhà sản xuất lithium lớn thứ sáu thế giới và có khả năng đáp ứng 20% nhu cầu một khi khai thác triệt để các mỏ đã biết, theo dự báo của Cơ quan Quản lý Thương mại Quốc tế.

Tháng 12/2022, Zimbabwe thông qua Đạo luật kiểm soát xuất khẩu khoáng sản cơ bản cấm xuất lithium thô. Tuy nhiên, các công ty đang trong quá trình phát triển mỏ hoặc nhà máy chế biến ở Zimbabwe được miễn lệnh cấm này. Bao gồm Chiết Giang Huayou Cobalt, Tập đoàn tài nguyên Sinomine và Tập đoàn Liti Chengxin, những doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư hơn 678 triệu USD vào các dự án lithium ở Zimbabwe.

Trong khi những người khai thác thủ công và nhỏ lẻ bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm xuất khẩu, thì người Trung Quốc hưởng lợi từ việc được miễn trừ. Cả mỏ Bikita, mỏ lithium lớn nhất trong nước và mỏ Lithium Arcadia đều thuộc sở hữu của Trung Quốc.

Năm 2022, các công ty khai thác của Trung Quốc Tsingshan, China Nonferrous và Huayou Cobalt đã đầu tư gần 1,5 tỷ USD vào Zimbabwe và trong cùng năm đó, Tập đoàn tài nguyên Sinomine công bố kế hoạch mở rộng sản xuất tại mỏ Bikita với việc xây dựng một nhà máy lithium mới trị giá 200 triệu USD.

“Khi chúng tôi cho phép họ (Trung Quốc) đến và làm những gì mà người dân Zimbabwe có khả năng làm, chúng tôi đang xây dựng Trung Quốc, chứ không phải Zimbabwe. Người dân địa phương đang yêu cầu trả lại không gian phát triển cho họ và gia đình”, Farai Maguwu, Giám đốc Trung tâm quản lý tài nguyên thiên nhiên Zimbabwe nói.

Mỹ tăng tốc cuộc đua lithium

Mỹ vẫn đang tích cực trong cuộc chạy đua giành quyền tiếp cận các mỏ lithium lớn tại châu Phi và Nam Mỹ. Sở hữu 750 ngàn tấn, nước Mỹ chỉ chiếm khoảng 2% trữ lượng khoáng sản được Elon Musk ví như “dầu mỏ mới” này, trong khi đó, Chile là quốc gia có trữ lượng lớn nhất thế giới cho đến nay.

Jose Fernandez, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Tăng trưởng Kinh tế, Năng lượng và Môi trường cho biết nhu cầu của Mỹ đối với lithium trong vài năm tới sẽ tăng gấp 42 lần.

“Chúng tôi đang hợp tác với CHDC Congo, Ghana và Mali để chính thức hoá lĩnh vực khai thác mỏ, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị nhằm loại bỏ hoá chất độc hại từ quá trình khai thác”, Fernandez nói.

Tháng 12 năm ngoái, Tổng thống Joe Biden đã chào đón 49 nhà lãnh đạo châu Phi đến Washington, D.C. tham dự Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Mỹ-châu Phi lần thứ hai và là hội nghị đầu tiên kể từ chính quyền Obama.

Hội nghị thượng đỉnh được coi là một bước quan trọng trong nỗ lực khôi phục các mối quan hệ vốn đã rạn nứt dưới thời chính quyền Trump. Tuy nhiên, sự vắng mặt gây chú ý trong sự kiện này là Tổng thống Zimbabwe Emmerson Mnangagwa, người chịu lệnh trừng phạt cấm đi lại của Mỹ từ năm 2002.

“Người Trung Quốc đầu tư để giữ vị thế, còn Mỹ thì không phải lúc nào cũng vậy”, Mvemba Phezo Dizolele, giám đốc Chương trình Châu Phi tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, cho biết.

Mặc dù Mỹ đã thể hiện rõ ý định của mình khi tham gia vào hoạt động kinh doanh ở châu Phi, nhưng thực tế là Trung Quốc đã cắm rễ sâu ở lục địa này. Sẽ rất khó để Mỹ bù đắp khoảng thời gian đã mất. Năm 2009, Trung Quốc vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của châu Phi. Tổng giá trị hàng hoá giao dịch giữa 2 bên đã tăng từ 121 triệu USD năm 1950 lên 254 tỷ USD vào năm 2021, so với Mỹ ở mức 64 tỷ USD vào năm 2021.

Dizolele nói: “Mỹ không nhất quán trong cách tương tác với châu Phi. Nếu bạn rời đi và quay lại 10 năm sau, khoảng trống mà bạn để lại sẽ được lấp đầy bởi người khác, vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải nhất quán”.

(Nguồn: Vietnamnet)

Xem thêm:
Về trang trước

Chủ đề:

Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá

Việt Nam

Người Việt hải ngoại

EU

Thế giới

Lên đầu trang