Giá dầu giảm mạnh; Châu Á khát LNG; Triều Tiên chơi bài ngửa; NATO tăng quân ở Kosovo; Thượng đỉnh NATO

Vì sao giá dầu giảm mạnh

(Ảnh minh họa).

Nền kinh tế lớn nhất thế giới đang trên bờ vực suy thoái, còn nền kinh tế thứ hai thế giới phục hồi với tốc độ chậm hơn dự kiến. Điều này tạo sức ép lớn lên giá dầu.

Theo dữ liệu của Trading Economics ngày 31/5, giá dầu Brent chuẩn toàn cầu đã rơi một mạch từ hơn 76 USD/thùng xuống 72,59 USD/thùng. Các dữ liệu kinh tế mới nhất của Trung Quốc - nước nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới - đang đè nặng lên thị trường này.

Theo dữ liệu được Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố hôm 31/5, chỉ số quản lý thu mua chính thức (PMI) của khu vực sản xuất đã giảm từ 49,2 điểm xuống 48,8 điểm. Đây là chuỗi giảm kéo dài 3 tháng theo sau đợt tăng ngắn trong 2 tháng đầu năm.

Con số này thậm chí còn thấp hơn dự báo trước đó của giới quan sát là 49,4 điểm. PMI rơi xuống dưới ngưỡng 50 điểm đồng nghĩa với việc các hoạt động sản xuất đang bị thu hẹp.

Kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm chạp

Các chỉ số phụ của PMI bao gồm số lượng đơn đặt hàng mới và tồn kho nguyên liệu thô đều giảm trong tháng 5. Điều này cho thấy cả xuất khẩu lẫn đầu tư vốn đang sụt giảm.

"Các chỉ số PMI chính thức cho thấy nền kinh tế Trung Quốc vẫn đang phục hồi trong tháng 5, dù với tốc độ chậm hơn", Reuters dẫn lời ông Julian Evans-Pritchard - Trưởng bộ phận kinh tế Trung Quốc tại Capital Economics.

"Ngành công nghiệp đang gặp khó khăn. Dòng tiền chảy vào các hoạt động xây dựng cũng suy yếu", vị chuyên gia nhận định.

Việc Trung Quốc không phục hồi mạnh mẽ như dự kiến là tin xấu với giá dầu. Nhu cầu đối với nhiên liệu sẽ bị đè nặng nếu các hoạt động kinh tế như sản xuất, vận tải và di chuyển yếu đi.

Trước đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) tin rằng đất nước 1,4 tỷ dân sẽ dẫn dắt đà tăng trưởng của thị trường dầu toàn cầu. Theo lập luận của IEA, Trung Quốc - nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới - có thể chiếm tới 60% tăng trưởng nhu cầu toàn cầu trong năm nay.

Cơ quan này tin rằng đà giảm trên thị trường dầu cho thấy niềm tin của nhà đầu tư đã lung lay. Họ thậm chí phớt lờ thực tế là cầu chuẩn bị vượt quá cung.

"Sự bi quan trên thị trường hiện tại hoàn toàn trái ngược với tình trạng khan hiếm trên thị trường, mà chúng tôi tin rằng sẽ xảy ra vào cuối năm nay, khi nhu cầu dự kiến vượt cung 2 triệu thùng/ngày", IEA cảnh báo.

Trong báo cáo được công bố hồi giữa tháng 5, OPEC cũng thừa nhận rằng trong tương lai, nhu cầu dầu đối với hầu hết sản phẩm tại Trung Quốc sẽ tăng lên. Hoạt động di chuyển nội địa và hàng không trong nước đã phục hồi lên gần 80% so với mức trước đại dịch.

Mỹ tiến gần suy thoái

Hiện tại, trong khi nền kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm hơn dự báo, Mỹ đang tiến gần hơn đến một cuộc suy thoái. Kể từ tháng 3 năm ngoái, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất điều hành tổng cộng 10 lần để hạ nhiệt lạm phát.

Những dữ liệu kinh tế mới nhất cho thấy các động thái này đang phát huy tác dụng. Hơn thế nữa, thỏa thuận sơ bộ giữa Nhà Trắng và Chủ tịch Hạ viện Mỹ Kevin McCarthy về trần nợ công có thể làm gia tăng rủi ro suy thoái của kinh tế Mỹ.

Theo đó, hai bên đồng ý tạm thời đình chỉ mức trần nợ công 31.400 tỷ USD đến ngày 1/1/2025, để chính phủ có thể vay tiền thanh toán chi phí.

Đổi lại, chi tiêu chính phủ (ngoại trừ quốc phòng) trong năm tài chính 2024 sẽ được giữ nguyên ở mức hiện tại và tăng tối đa 1% trong năm 2025.

Trong những quý vừa qua, chi tiêu liên bang đã thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế Mỹ. Nhưng động lực này có thể sớm bị triệt tiêu sau thỏa thuận mới, từ đó giáng đòn lên tăng trưởng kinh tế vốn đang bị bóp nghẹt bởi các chính sách tiền tệ thắt chặt.

Cuộc họp giữa OPEC và đồng minh cũng sắp diễn ra. Cuộc họp này sẽ quyết định về việc liệu nhóm có tiếp tục cắt giảm sản lượng trong bối cảnh thị trường chịu sức ép lớn hay không.

(Nguồn: Zing News)

Cơn khát LNG ở châu Á và bất ổn nguồn cung

Với việc khí đốt tự nhiên được coi là nhiên liệu được lựa chọn để củng cố an ninh năng lượng trong quá trình chuyển đổi, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt nhằm tìm kiếm thêm nguồn cung khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), theo Upstream Online.

Các nhà nhập khẩu LNG hàng đầu của Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều đang tìm kiếm nguồn cung mới để thay thế các hợp đồng sắp hết hạn, đồng thời cố gắng đa dạng hóa nguồn cung để đối phó với bối cảnh địa chính trị toàn cầu ngày càng bất ổn.

Mối quan tâm trở lại đối với nguồn cung cấp LNG dài hạn xuất hiện khi nền kinh tế của Trung Quốc nhận thấy nhu cầu phục hồi sau các đợt phong tỏa do đại dịch Covid-19 và sự cạnh tranh ngày càng tăng đối với LNG sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine vào năm ngoái đã khiến châu Âu giảm sự phụ thuộc vào khí đốt của Nga.

Trong bối cảnh đó, các nhà cung cấp từ Mỹ và Na Uy đã đưa ra cảnh báo rằng châu Âu có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn cung và rủi ro an ninh năng lượng vì các đối thủ ở Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia khác đang giành được các thỏa thuận dài hạn với các nhà xuất khẩu LNG của Mỹ.

Các khách hàng LNG từ Trung Quốc, từ các công ty lớn do nhà nước điều hành đến các công ty hạng hai, đang tiếp tục theo đuổi chiến lược tích cực ký kết hợp đồng khi họ tìm kiếm nguồn cung để đáp ứng cả nhu cầu trong nước và giao dịch, nhưng điều đó không hề dễ dàng.

Các chuyên gia từ Poten & Partners nhận xét trong một ghi chú nghiên cứu: “Việc chốt các thỏa thuận mua bán vẫn còn là một thách thức, trong bối cảnh các vấn đề như thời điểm, điều kiện thị trường và nguồn hàng, giá cả và rủi ro vận chuyển”.

Trung Quốc dự kiến sẽ tăng công suất tái khí hóa thêm gần 30 triệu tấn mỗi năm (tpa) thông qua các cảng nhập khẩu LNG mới từ năm 2023 đến 2024 và Poten & Partners cho biết có những lo ngại rằng các cơ sở sẽ được sử dụng dưới mức thiết kế, tùy thuộc vào nhu cầu cũng như các điều khoản.

Những lần thất bại của Trung Quốc khi không đạt được thỏa thuận mua bán (SPA) chủ yếu do những khó khăn trong việc đảm bảo tín dụng và mâu thuẫn về giá giữa người mua và người bán, Poten & Partners cho biết thêm.

Các khách hàng LNG của Trung Quốc đang đàm phán trực tiếp với những người đề xuất dự án hóa lỏng ở Mỹ, và cả Mexico. Ví dụ mới nhất là động thái của nhà phân phối khí đốt Trung Quốc Towngas cho một SPA khả thi với Hartree Partners để cung cấp nguồn cung giao tại tàu (DES) sang Trung Quốc từ dự án Delfin LNG ở Louisiana, Mỹ.

Nghiên cứu của Poten & Partners đã đặt ra một số câu hỏi về mức độ rủi ro vận chuyển mà người mua Trung Quốc có thể quản lý cho các lô hàng được giao tự do (FOB).

“Nhiều công ty Trung Quốc cũng cảnh giác với Henry Hub do rủi ro cơ bản, tắc nghẽn kênh đào Panama, các vấn đề tiềm ẩn về sản xuất và giao hàng cũng như căng thẳng địa chính trị Mỹ-Trung”, nghiên cứu cho biết.

Chiến lược của Nhật Bản

Hiện tại, lượng dự trữ LNG của Nhật Bản đang ở mức cao do nhu cầu trong mùa đông năm ngoái không mạnh như dự kiến nhờ nền nhiệt độ ấm hơn và một số nỗ lực của chính phủ nhằm hạn chế nhu cầu trong bối cảnh giá nhiên liệu tăng cao.

Theo công ty tư vấn Rystad Energy của Na Uy, Nhật Bản dự kiến sẽ nhập khẩu khoảng 70 triệu tấn LNG vào năm 2023, giảm từ 74 triệu tấn vào năm 2021 và 72 triệu tấn vào năm ngoái.

“Chiến lược mua LNG hiện tại của Nhật Bản tập trung chủ yếu vào việc mua LNG thông qua các hợp đồng dài hạn có liên quan đến dầu mỏ. Trong những năm tới, Nhật Bản có thể sẽ ký thêm các hợp đồng dài hạn khi một số sẽ hết hạn từ năm 2026-2032”, Masa Odaka, nhà phân tích tại Rystad nói với Upstream.

Rystad dự báo nhu cầu LNG của Nhật Bản sẽ giảm nhẹ trong những năm tới, khi nước này rời xa nhiên liệu hóa thạch. 2/3 lượng LNG nhập khẩu vào Nhật Bản hiện được dùng để phát điện, trong khi 1/3 được bán dưới dạng khí đốt.

“Dự báo của chúng tôi cho thấy nhu cầu LNG của Nhật Bản vào khoảng 69 triệu tấn vào năm 2030 và 51 triệu tấn vào năm 2040”, Odaka nói.

Tuy nhiên, vẫn có xu hướng thực hiện một số giao dịch rất dài hạn, chẳng hạn như SPA kéo dài 20 năm mà Jera đã ký với Venture Global vào cuối tháng 4 để mua khoảng 1 triệu tấn LNG mỗi năm từ dự án CP2 ở Cameron Parish, Louisiana.

An ninh năng lượng Hàn Quốc

Tập đoàn khí đốt nhà nước Hàn Quốc (Kogas) - nhà nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới - cũng chịu áp lực tương tự và đã ký một thỏa thuận với TotalEnergies của Pháp để thúc đẩy kinh doanh và tối ưu hóa LNG nhằm tăng cường an ninh năng lượng của đất nước mình.

Kogas và TotalEnergies sẽ hợp tác về tiếp thị và vận chuyển LNG, khám phá các cơ hội kinh doanh trong giao dịch như chia sẻ xu hướng thị trường LNG và khởi động một hệ thống hợp tác để tăng cường an ninh năng lượng.

TotalEnergies cũng đã ký hợp đồng 15 năm cung cấp 600.000 tấn LNG mỗi năm cho Hanwha Energy của Hàn Quốc từ năm 2024. Khối lượng cho thỏa thuận này sẽ được lấy từ danh mục đầu tư toàn cầu của công ty Pháp và được chuyển đến cảng Tongyeong ở Hàn Quốc.

Odaka lưu ý rằng không giống như Nhật Bản, nhập khẩu LNG của Hàn Quốc có thể sẽ có xu hướng tăng trong nửa cuối thập kỷ này do chính sách thúc đẩy khí đốt thay vì than để sản xuất điện. Hơn nữa, nhu cầu công nghiệp dự kiến sẽ vẫn mạnh mẽ.

“Nhu cầu LNG của Hàn Quốc dự kiến sẽ vào khoảng 45 triệu tấn vào năm 2023, so với 45,4 triệu tấn vào năm 2021 và 46 triệu tấn vào năm 2022. Chúng tôi dự kiến Hàn Quốc sẽ nhập khẩu khoảng 48 triệu tấn vào năm 2030 và 50 triệu tấn vào năm 2040.

Hàn Quốc có khả năng nhập khẩu một phần đáng kể LNG thông qua các hợp đồng dài hạn, giống như Nhật Bản. Tuy nhiên, Kogas có thể sẽ tiếp tục mua LNG giao ngay khi nhu cầu đạt đỉnh vào mùa đông”, Odaka nói.

Kogas vào năm 2022 đã ký hợp đồng nhập khẩu 1,58 triệu tấn LNG/năm từ BP trong tối đa 18 năm bắt đầu từ năm 2025, với giá được liên kết với Henry Hub.

“Thỏa thuận cung cấp dựa trên LNG được sản xuất tại Mỹ, bao gồm cả Freeport LNG, sẽ giúp chúng tôi giảm sự phụ thuộc vào Trung Đông và đa dạng hóa nguồn cung”, Kogas cho biết vào thời điểm đó.

Công ty đang tiếp tục tìm kiếm LNG mới trên thị trường sau khi quyết định không gia hạn thỏa thuận khoảng 700.000 tấn/năm kéo dài đến 2027 từ dự án hóa lỏng Donggi Senoro ở Sulawesi, Indonesia.

Áp lực dài hạn vẫn còn đối với Hàn Quốc. S&P Global lưu ý rằng Kogas sẽ mất nguồn cung 7,02 triệu tấn LNG của Qatar vào năm 2026 trong khi hợp đồng 20 năm cho 2 triệu tấn LNG mỗi năm từ RasGas sẽ hết hạn vào năm 2032.

“Một số thỏa thuận dài hạn hơn mà Kogas có với các nhà cung cấp khác, chẳng hạn như 4 triệu tấn mỗi năm từ OLNG của Oman, dự kiến sẽ hết hạn trước năm 2030”, S&P Global lưu ý.

Hiện tại, 70 - 80% lượng mua LNG của Kogas dựa trên các hợp đồng có thời hạn và khối lượng còn lại đến từ thị trường giao ngay.

Hợp tác xuyên biên giới

Jera của Nhật Bản và Kogas vào tháng 4 đã ký kết một biên bản ghi nhớ để hợp tác trong lĩnh vực kinh doanh LNG, nhằm đảm bảo nguồn cung ổn định và cho phép ​​hai bên đánh giá các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực kinh doanh LNG bao gồm hoán đổi LNG, giao dịch, tối ưu hóa tàu và trao đổi quan điểm thị trường.

Jera lưu ý: “Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã tạo ra một môi trường năng lượng khắc nghiệt, chẳng hạn như giảm nguồn cung cấp khí đốt qua đường ống cho châu Âu và rủi ro về nguồn cung năng lượng toàn cầu đang gia tăng mạnh mẽ”.

Lo ngại từ Australia

Trong bối cảnh đó, Nhật Bản cũng bày tỏ không hài lòng về độ tin cậy lâu dài của nguồn cung từ Australia, quốc gia chiếm 43% khối lượng LNG nhập khẩu của Nhật Bản vào năm 2022.

Takayuki Ueda, Giám đốc điều hành của Inpex Nhật Bản - nhà điều hành dự án Ichthys LNG khổng lồ và là nhà đầu tư lớn nhất của Nhật Bản tại Australia - đã gây bất ngờ tại hội nghị ở Canberra vào tháng 3 khi chỉ trích môi trường đầu tư của Australia “có vẻ như đang xấu đi”.

Ông nói về “hậu quả xấu xa” của việc Australia “lặng lẽ từ bỏ” hoạt động kinh doanh LNG và nói rằng từ bỏ LNG sẽ có lợi cho Nga, Trung Quốc và Iran.

Giám đốc nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương của Wood Mackenzie, Angus Rodger nhận xét: “Chuông báo động về an ninh năng lượng đang vang lên ở mức cao nhất tại Tokyo”.

Điều khiến Nhật Bản lo lắng là Australia sẽ có thể chuyển khí đốt đã cam kết theo các hợp đồng xuất khẩu LNG sang thị trường nội địa.

Rodger cho biết: “Điều này chắc chắn đã khiến tất cả các nhà nhập khẩu LNG của Australia hoảng sợ, nhưng không ai khác hơn là khách hàng lớn nhất của họ, Nhật Bản”.

Xuất khẩu LNG của Australia sang Nhật Bản trong năm tài chính 2022 đạt 28,89 tỷ AUD (18,81 tỷ USD), trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc và Hàn Quốc lần lượt trị giá 18,27 tỷ AUD và 13,01 tỷ AUD, theo statista.com.

“Nhật Bản, Hàn Quốc và các thị trường Bắc Á khác không chỉ dựa vào LNG của Australia để cung cấp một phần đáng kể nguồn cung cấp năng lượng của họ, mà về lâu dài, họ còn coi nước này là đối tác và hy vọng tốt nhất để đạt được mức phát thải ròng bằng 0, chủ yếu thông qua thu hồi và lưu trữ carbon và hydro. Những thông điệp trái chiều mà họ đang nhận được về cam kết của Australia đối với mối quan hệ này đang gây ra một số phản ứng rất mạnh mẽ”, Rodger nói thêm.

(Nguồn: Năng Lượng Quốc Tế)

Triều Tiên chơi bài ngửa

(Ảnh minh họa).

Việc CHDCND Triều Tiên từng nhiều lần thử hạt nhân, phóng nhiều chủng loại tên lửa và cả phóng tên lửa đẩy đưa vệ tinh lên quỹ đạo vốn không có gì mới lạ. Nhưng các bên đã bất ngờ không nhỏ khi Triều Tiên mới đây thông báo trước cho Nhật Bản về dự định sẽ phóng tên lửa đẩy đưa vệ tinh tình báo đầu tiên lên quỹ đạo vào đầu tháng 6 tới.

Không gây bất ngờ sao được khi Bình Nhưỡng còn công khai nhiều chi tiết độc đáo liên quan đến chuyện này. Chẳng hạn, Triều Tiên nêu rõ nhiệm vụ của vệ tinh là theo dõi trực tiếp hoạt động quân sự của Mỹ và các đồng minh quân sự chiến lược truyền thống ở khu vực Đông Bắc Á - cụ thể là Nhật Bản và Hàn Quốc - để không những chỉ nắm bắt tình hình mà còn nhằm chủ động ứng phó và ngăn chặn, cũng như để tiếp tục thử nghiệm một số tính năng và công nghệ khác liên quan tên lửa đẩy và vệ tinh. Bình Nhưỡng lại chỉ thông báo trước cho mỗi Tokyo.

Tất cả đều có ẩn ý và mục đích. Triều Tiên bị LHQ cấm và trừng phạt về thử nghiệm hạt nhân và phóng tên lửa. Nhưng LHQ không thể cấm và trừng phạt Bình Nhưỡng phóng tên lửa đẩy đưa vệ tinh lên quỹ đạo. Như thế có nghĩa là Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc hoặc bên nào khác cũng chỉ có thể phản đối hoặc tìm cách ngăn chặn Triều Tiên phóng tên lửa đẩy đưa vệ tinh lên quỹ đạo.

Thời gian qua, Mỹ cùng với Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường phối hợp hành động đối phó việc Triều Tiên liên tục phóng tên lửa. Nên động thái trên là một kiểu chơi bài ngửa của Triều Tiên để đạt được mọi mục tiêu cùng lúc. Để khẳng định tiếp tục chương trình tên lửa và răn đe bộ ba kia, để Nhật Bản không bắn hạ tên lửa đẩy của Triều Tiên và để tạo sự đã rồi mà phe kia không có lý để cản phá.

(Nguồn: Thanh Niên)

NATO đưa thêm quân tới thị trấn Kosovo để kiềm chế bạo lực

Quân đội NATO bảo vệ một tòa thị chính ở Zvecan của Kosovo và liên minh NATO ngày 30/5 tuyên bố sẽ gửi thêm binh sĩ đến khu vực này, một ngày sau khi 30 binh sĩ NATO và 52 người biểu tình bị thương trong các cuộc đụng độ và EU và Hoa Kỳ kêu gọi xuống thang bạo lực.

Tình trạng bất ổn trong khu vực đã gia tăng kể từ khi các thị trưởng gốc Albania nhậm chức ở khu vực có đa số người Serb ở phía bắc Kosovo sau cuộc bầu cử hồi tháng 4 mà người Serb tẩy chay, một động thái khiến Hoa Kỳ và các đồng minh ngày 26/5 lên án Pristina.

NATO cho biết trong một tuyên bố rằng họ sẽ gửi thêm lực lượng tới Kosovo để ngăn chặn bạo lực, nhưng không cung cấp thông tin chi tiết về thời điểm điều này sẽ xảy ra hoặc số lượng binh sĩ tham gia.

Người Serb từ chối tham gia cuộc bầu cử địa phương vào tháng 4 và các ứng cử viên sắc tộc Albania đã giành chức thị trưởng ở bốn thành phố có đa số người Serb với tỷ lệ cử tri đi bầu là 3,5%.

Đa số người Serb ở Bắc Kosovo chưa bao giờ chấp nhận tuyên bố độc lập của Kosovo từ Serbia năm 2008, và coi Belgrade là thủ đô của họ hơn hai thập niên sau cuộc nổi dậy của người Albania ở Kosovo chống lại sự cai trị đàn áp của người Serbia.

Người gốc Albania chiếm hơn 90% dân số ở Kosovo nói chung, nhưng người Serb ở phía bắc từ lâu đã yêu cầu thực hiện thỏa thuận năm 2013 do EU làm trung gian để thành lập hiệp hội các đô thị tự trị trong khu vực của họ.

Tại thị trấn Zvecan, hàng chục binh sĩ mặc trang phục chống bạo động đến từ Hoa Kỳ, Ba Lan và Ý bảo vệ một tòa nhà thành phố khi người Serb phản đối việc một thị trưởng người Albania đến nhậm chức.

Những người biểu tình Serbia giải tán vào khoảng 4 giờ chiều, và sẽ trở lại vào sáng 31/5, hãng thông tấn Tanjug của Serbia đưa tin, dẫn lời các quan chức Serbia ở Zvecan.

Một phóng viên của Reuters đã nhìn thấy bốn đoàn xe lớn của NATO tiến về phía bắc vào cuối chiều ngày 30/5.

Khuyến cáo xuống thang

Nga, từ lâu có quan hệ chặt chẽ với Serbia và chia sẻ truyền thống Cơ đốc giáo chính thống và Slavic, hôm 30/5 đã kêu gọi “các bước quyết định” để dập tắt tình trạng bất ổn ở Kosovo.

Bộ Ngoại giao Nga kêu gọi “phương Tây cuối cùng phải dập tắt tuyên truyền sai trái của họ và ngừng đổ lỗi cho những người Serb bị đẩy đến tuyệt vọng vì những sự kiện ở Kosovo, những người hòa bình, không vũ trang, đang cố gắng bảo vệ các quyền và tự do chính đáng của họ.”

Theo yêu cầu của Belgrade, Moscow đã ngăn cản Kosovo trở thành thành viên Liên hiệp quốc.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Kosovo Jeffrey Hovenier quy trách nhiệm cho Pristina đã gây căng thẳng ở phía bắc khi đưa các thị trưởng Albania đến văn phòng nhậm chức vào ngày 26/5 bất chấp sự phản đối của người Serb.

Washington, cổ súy và ủng hộ thẳng thắn nhất cho nền độc lập của Kosovo, đã quyết định hủy bỏ việc Kosovo tham gia một cuộc tập trận quân sự sau khi Pristina từ chối rút các thị trưởng và lực lượng cảnh sát khỏi miền bắc.

Ông nói với các phóng viên: “Chúng tôi cũng đang suy nghĩ về những tác động khác”.

Những người đàn ông đeo mặt nạ ở thị trấn Leposavic gần biên giới Serbia đã đập vỡ kính chắn gió của một chiếc ô tô có biển số Albania được đánh dấu là “A2, chi nhánh của CNN”, một phóng viên Reuters chứng kiến vụ việc cho biết. Một chiếc ô tô riêng của một hãng truyền thông khác cũng bị đập phá. Không ai bị thương.

‘Quá nhiều bạo lực’

Người phụ trách chính sách đối ngoại của EU Josep Borrell kêu gọi các nhà lãnh đạo Kosovo và Serbia tìm cách giảm căng thẳng thông qua đối thoại.

“Chúng ta đã có quá nhiều bạo lực ở châu Âu ngày nay, chúng ta không thể để xảy ra một cuộc xung đột nào nữa”, ông Borrell nói trong một cuộc họp báo ở Brussels.

Chính quyền Kosovo nói Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic gây bất ổn cho Kosovo. Ông Vucic đổ lỗi cho chính quyền Kosovo đã gây ra vấn đề khi bổ nhiệm các thị trưởng mới.

Thủ tướng Kosovo, Albin Kurti, viết trên Twitter vào cuối ngày 29/5: “Trong một nền dân chủ không có chỗ cho bạo lực phát xít.”

Sau khi gặp các đại sứ của nhóm Quint - bao gồm Hoa Kỳ, Ý, Pháp, Đức và Anh - tại Belgrade, ông Vucic cho biết ông đã yêu cầu các thị trưởng Albania rời khỏi văn phòng của họ ở phía bắc.

Tổng thống Kosovo Vjosa Osmani nói các băng đảng tội phạm, được hỗ trợ bởi ông Vucic, nhắm mục tiêu gây bất ổn cho Kosovo và toàn bộ khu vực.

Hôm 29/5, những người biểu tình người Serb ở Zvecan đã ném hơi cay và lựu đạn gây choáng vào các binh sĩ NATO, khiến 30 binh sĩ NATO cùng với 52 người Serb bị thương.

“Các hành động bạo lực chống lại công dân, chống lại truyền thông, chống lại cơ quan thực thi pháp luật và lính Kosovo trong NATO là hoàn toàn không thể chấp nhận được”, ông Borrell của EU nói.

(Nguồn: VOA)

Thượng đỉnh NATO và những quyết định quan trọng

(Ảnh minh họa).

Hội nghị Thượng đỉnh NATO sẽ tổ chức vào tháng 07/2023 tại thủ đô Vilnius của Litva là thời điểm mà nguyên thủ các nước NATO phải đưa ra các quyết định quan trọng, một là quy chế mà liên minh quân sự này sẽ trao cho Ukraine, hai là việc kết nạp Thuỵ Điển làm thành viên.

Những quyết định quan trọng được đưa ra

Hội nghị Ngoại trưởng không chính thức của NATO tại Oslo trong hai ngày 31/5 và 1/6 hướng tới thảo luận về hai chủ đề trên nhằm tìm kiếm tất cả các giải pháp khả thi ở cấp độ Bộ trưởng trước khi trình lên cho các quan chức cấp cao nhất của NATO quyết định.

Đối với chủ đề Thuỵ Điển gia nhập NATO, do có thông tin cho biết Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ, 1 trong 2 nước thành viên NATO (cùng Hungary) vẫn đang ngăn cản Thuỵ Điển, nhiều khả năng không tham dự cuộc họp nên có lẽ chủ đề thảo luận quan trọng nhất của các Ngoại trưởng NATO trong 2 ngày tại Oslo sẽ là làm thế nào để xác định tính chất quan hệ sắp tới giữa NATO và Ukraine.

Kể từ khi xung đột tại Ukraine nổ ra, ngày càng có nhiều áp lực từ phía các nước thành viên NATO ở Đông Âu, Trung Âu cũng như từ chính quyền Ukraine về việc NATO cần sớm trao cho Ukraine tư cách thành viên. Các quan chức cấp cao của NATO hay nguyên thủ các thành viên chủ chốt của NATO cũng nhiều lần tuyên bố một cách mập mờ rằng sớm hay muộn thì Ukraine cũng sẽ là thành viên của NATO nhưng hầu hết đều loại trừ kịch bản kết nạp Ukraine trong ngắn hạn hay trung hạn, bởi như Tổng thư ký NATO, Jens Stoltenberg nhận định “không thể thảo luận việc kết nạp một quốc gia làm thành viên giữa lúc đang có chiến sự”, tức chỉ khi nào xung đột Ukraine chấm dứt thì NATO mới có thể bàn về việc có kết nạp Ukraine làm thành viên hay không.

Đây là điều dễ hiểu bởi việc kết nạp Ukraine vào thời điểm này đồng nghĩa với việc NATO sẽ bị kéo vào một cuộc chiến trực diện với một siêu cường hạt nhân là Nga. Vì lí do đó, đến nay NATO vẫn chưa đồng ý thông qua quy trình kết nạp nhanh cho Ukraine.

Vấn đề là NATO cũng không muốn làm nhụt chí chính quyền Ukraine vào thời điểm này nên buộc phải tìm một giải pháp trung hoà, tức là nâng cấp mối quan hệ với Ukraine nhưng không đưa ra một cam kết rõ ràng và cụ thể về việc kết nạp Ukraine làm thành viên. Do đó, nhiệm vụ của các Ngoại trưởng NATO là thảo luận các kịch bản, có thể là việc nâng cấp Uỷ ban NATO - Ukraine lên thành Hội đồng NATO - Ukraine, tức cho phép Ukraine có tiếng nói lớn hơn trong quan hệ chính trị với NATO.

Một số nước Đông Âu muốn đưa ra các đảm bảo an ninh song phương hoặc đa phương, tức 2-3 thành viên NATO cam kết an ninh cho Ukraine chứ không phải toàn bộ NATO. Một kịch bản khác là trao cho Ukraine một cơ chế đảm bảo an ninh giống như phương Tây, nhất là Mỹ, đang làm với Israel, tức là thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển giao vũ khí và công nghệ quân sự tinh vi cho Ukraine.

Nhìn chung, tại Oslo các Ngoại trưởng NATO sẽ phải tìm cách thu hẹp bất đồng, tìm kiếm một giải pháp chung cho Ukraine để ít nhất khi Thượng đỉnh NATO diễn ra tại Litva, các nguyên thủ NATO không rơi vào tình trạng bất đồng công khai về vấn đề Ukraine. Cuối cùng, một chủ đề đáng chú ý khác cũng sẽ được thảo luận ở Oslo nhằm chuẩn bị cho Thượng đỉnh ở Litva là tìm kiếm người thay thế ông Jens Stoltenberg trên cương vị Tổng thư ký NATO vào cuối năm nay.

Quyết tâm gia nhập NATO của Thụy Điển

Một ngày trước khi các Ngoại trưởng NATO nhóm họp tại Oslo, Tổng thư ký NATO, Jens Stoltenberg tuyên bố Thuỵ Điển vẫn hoàn toàn có khả năng gia nhập NATO tại Thượng đỉnh NATO, tức trong hơn 1 tháng nữa. Điều này cho thấy, một mặt các quan chức NATO cũng như hầu như toàn bộ các nước thành viên NATO đều mong muốn Thượng đỉnh NATO tại Litva sắp tới để lại dấu ấn thành công, mà việc kết nạp Thuỵ Điển làm thành viên thứ 32 sẽ là dấu ấn lớn nhất, nhưng mặt khác, các tuyên bố như này cũng cho thấy là hiện nay các nước NATO đang trong trạng thái không chắc chắn, không nắm bắt được là chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ sẽ thể hiện quan điểm ra sao sau cuộc bầu cử Tổng thống.

Trong 2 nước NATO vẫn đang phản đối Thuỵ Điển là Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary thì Thổ Nhĩ Kỳ bị xem là cản trở lớn hơn bởi quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Thuỵ Điển bị chi phối bởi một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất đối với Thổ Nhĩ Kỳ, đó là sự hiện diện đông đảo của những thành viên đảng “Công nhân người Kurd” (PKK) trên đất Thuỵ Điển. Đây là đảng đấu tranh đòi ly khai, lập nhà nước riêng cho hơn 14 triệu người Kurd ở Thổ Nhĩ Kỳ nên từ nhiều năm qua bị Thổ Nhĩ Kỳ xem là đe doạ an ninh lớn nhất, và cũng bị Thổ Nhĩ Kỳ cùng EU xếp vào danh sách “khủng bố”. Do đó, Thổ Nhĩ Kỳ rất kiên quyết đòi hỏi đối với Thuỵ Điển về việc phải dẫn độ nhiều thành viên PKK mà Thổ Nhĩ Kỳ coi là khủng bố. Tất nhiên, chính phủ Thuỵ Điển cũng gặp cản trở lớn về tư pháp bởi không thể tự quyết định vấn đề này.

Do đó, giải pháp để phá thế bế tắc hiện nay phải đến từ các đồng minh NATO khác, đặc biệt là Mỹ. Thổ Nhĩ Kỳ đã đưa ra một “lá bài” có giá trị cao nên nếu muốn Ankara đổi ý, bật đèn xanh cho Thuỵ Điển thì Mỹ cũng phải đưa ra một nhân nhượng có giá trị lớn khác, như việc nối lại các chương trình bán vũ khí lớn cho Thổ Nhĩ Kỳ hay thậm chí là gạt bỏ sự ủng hộ đối với các đối thủ chính trị của Tổng thống Erdogan. Nhìn chung, vai trò của Mỹ vẫn mang tính quyết định trong sự việc này và tất nhiên, Thuỵ Điển cũng sẽ phải chấp nhận có thêm những nhân nhượng mới.

Chiến thắng của Tổng thống Erdogan có tác động gì?

Chiến thắng tương đối thuyết phục của ông Tayip Erdogan trong cuộc bầu cử Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ vừa qua giúp củng cố vị thế chính trị của ông Erdogan, giúp ông Erdogan có thêm sức mạnh trong các cuộc đàm phán, mặc cả lợi ích với các đồng minh NATO. Tại châu Âu, hiện có hai luồng nhận định chính về các tác động của việc ông Erdogan sẽ tiếp tục cầm quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ thêm 5 nữa.

Luồng ý kiến đầu tiên cho rằng, thắng lợi bầu cử vừa qua sẽ càng khiến ông Tayip Erdogan hành động quyết đoán hơn trong việc theo đuổi chính sách độc lập, thậm chí đôi khi là đi ngược lại với các đồng minh phương Tây, trong chính sách đối ngoại và an ninh của Thổ Nhĩ Kỳ, với tham vọng tạo dựng vị thế cường quốc cho Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực Trung Cận Đông.

Nếu ông Erdogan đi theo hướng này thì các thảo luận về việc Thuỵ Điển gia nhập NATO chắc chắn sẽ còn gặp nhiều khó khăn bởi những gì diễn ra trong thời gian qua cho thấy ông Erdogan không e ngại các lời đe doạ từ một số đồng minh trong NATO về việc xem xét lại mối quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ, bởi ông Erdogan hiểu quá rõ vị thế địa chiến lược quá quan trọng của Thổ Nhĩ Kỳ đối với liên minh quân sự. Khi đó, phương Tây sẽ phải chấp nhận nhượng bộ nhiều cho Thổ Nhĩ Kỳ để có thể sớm đưa Thuỵ Điển vào NATO, đồng thời tránh nguy cơ bất đồng này kéo dài sẽ tạo ra các rạn nứt lớn hơn.

Tuy nhiên, cũng có một luồng ý kiến khác cho rằng, ông Tayip Erdogan sẽ làm Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp và cũng sẽ là nhiệm kỳ cuối cùng nên có thể ông Erdogan sẽ không còn phải chịu sức ép về việc phải thu hút sự ủng hộ của các lực lượng bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa tại Thổ Nhĩ Kỳ, qua đó có thể sẽ theo đuổi một đường lối đối ngoại cởi mở hơn, tập trung nhiều hơn vào các vấn đề thực tiễn của Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là kinh tế. Nếu điều này diễn ra, phương Tây có thể tác động lớn khiến ông Erdogan thay đổi quan điểm bởi Thổ Nhĩ Kỳ đang có những khó khăn kinh tế lớn và quan hệ kinh tế với các đồng minh phương Tây vẫn chiếm vai trò quan trọng nhất đối với Thổ Nhĩ Kỳ.

Hiện nay, do cuộc bầu cử tại Thổ Nhĩ Kỳ vừa kết thúc và Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang trong quá trình thành lập nên các đồng minh phương Tây sẽ phải chờ đợi các thay đổi chính sách từ Thổ Nhĩ Kỳ ra sao. Tuy nhiên, Tổng thống Tayip Erdogan đã cầm quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ suốt 2 thập kỷ qua và đã thể hiện mình là một nhà lãnh đạo quyết đoán, độc lập, rất thực dụng và càng ngày càng có xu hướng ác cảm với một số chính sách hay giá trị của các đồng minh NATO. Vì thế, có lẽ không nên trông đợi một sự thay đổi lớn từ phía chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ một khi phương Tây không chấp nhận các nhượng bộ lợi ích đáng kể./.

(Nguồn: VOV)

Xem thêm:
Về trang trước

Chủ đề:

Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá

Việt Nam

Người Việt hải ngoại

EU

Thế giới

Lên đầu trang