.jpg)
THÀNH TỰU CHỐNG LŨ Ở CHÂU ÂU
Mưa lớn bất thường tại khu vực Trung Âu vào giữa tháng 9 đã gây ra lũ lụt nghiêm trọng tại một số vùng thuộc các quốc gia Ba Lan, Áo, Romania và Cộng hòa Czech. Qua trận lũ lịch sử này, các chuyên gia ghi nhận thành tựu chống lũ ở một số nước.
Romania là một quốc gia dễ bị lũ lụt. Kể từ năm 2000, lũ lụt đã làm chết hơn 240 người ở quốc gia này. Chỉ riêng lũ lụt năm 2005 và 2006 đã ảnh hưởng đến hơn 1,5 triệu người, làm chết 93 người, thiệt hại ước tính hơn 2 tỷ EUR. Để quản lý rủi ro lũ lụt, Romania, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, đã xây dựng Kế hoạch quản lý rủi ro lũ lụt mới cho 11 lưu vực sông của nước này phù hợp với các yêu cầu của Liên minh châu Âu (EU).
Bản đồ này được cập nhật, đánh giá và đưa ra phương pháp luận sáng tạo để xác định, đánh giá và ưu tiên các biện pháp. Từ đó, giúp tăng cường năng lực chuẩn bị, ứng phó và phục hồi sau lũ lụt. Cách tiếp cận này cho phép ước tính tác động của lũ lụt đối với tài sản trong nước, cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng giao thông cũng như ước tính tổng thiệt hại theo giá trị tiền tệ. Sau khi xác định biện pháp khả thi, các cơ quan quản lý lưu vực sông của Romania đã phát triển các giải pháp toàn diện với biện pháp phòng ngừa và bảo vệ.
Đặc biệt, Romania sử dụng rừng và các giải pháp dựa trên thiên nhiên khác để quản lý rủi ro lũ lụt, chẳng hạn như lùi đê và tạo thêm không gian cho sông, mang lại nhiều lợi ích ngoài việc giảm rủi ro lũ lụt. Những lợi ích này có thể bao gồm bảo tồn đa dạng sinh học, tăng cường bổ sung nước ngầm... Hơn nữa, các giải pháp này giúp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Là nước nổi tiếng thế giới về thuật “trị nước”, đất nước Hà Lan với địa hình thấp hơn mặt nước biển đã trở thành biểu tượng của phòng chống lũ lụt. Vào những năm 1990, Hà Lan đã trải qua mực nước cực kỳ cao và nhiều cư dân sống gần các con sông đã phải sơ tán. Điều này dẫn đến việc phát triển chương trình nhà nước “Room for the River” (tạm dịch: khơi thông sông ngòi), nhằm mục đích tái tạo tự nhiên các đoạn sông để ngăn ngừa lũ lụt.
Kế hoạch được tất cả các bên liên quan ủng hộ, dẫn đến sự phát triển của một khu vực thiên nhiên độc đáo rộng 400ha với đa dạng sinh học phong phú, bao gồm rừng ven sông, đầm lầy và đồng cỏ nhiều thảo mộc, đảm bảo an toàn lũ lụt cho cư dân và doanh nghiệp cùng với các cơ hội giải trí. Đường đi bộ và đạp xe, vườn trà, vườn cảnh quan và các tác phẩm nghệ thuật mang đến nhiều trải nghiệm cho cư dân và du khách.
Tại Áo, trong trận lũ vừa qua, ngoài hệ thống tàu điện ngầm bị gián đoạn hoạt động, các ngôi nhà tại ở thủ đô Vienna gần như không bị ảnh hưởng. Điều này có được nhờ chiến lược phòng chống lũ hiệu quả đã được xây dựng từ trước đó.
Nằm dọc sông Danube, Vienna đã hứng chịu nhiều đợt lũ lụt trong những năm qua. Hòn đảo nhân tạo đảo Danube và kênh kiểm soát lũ lụt New Danube đã được xây dựng vào thập niên 1970, trở thành trụ cột của hệ thống phòng chống ngập lụt của thành phố.
Lưu lượng lũ của sông Danube ở Vienna đạt mức khoảng 11.000m3/giây, nhưng Vienna tránh được thiệt hại nghiêm trọng nhờ hệ thống phòng chống lũ lụt này. Cả nước Áo cũng tăng cường phòng chống lũ. Quốc gia này đầu tư khoảng 67 triệu USD/năm cho các biện pháp bảo vệ trước lũ lụt và có hiệu quả đã giúp giảm thiệt hại.
EU BẤT ĐỒNG VỀ VIỆC ÁP THUẾ XE ĐIỆN TRUNG QUỐC
Hiện giới chức các nước EU vẫn đang đưa ra những quan điểm trái ngược nhau về việc áp thuế xe điện Trung Quốc.
Ngày 4/10, các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) dự kiến sẽ nhóm họp để bỏ phiếu về đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) áp mức thuế nhập khẩu lên tới 45% đối với xe điện được sản xuất tại Trung Quốc. Đề xuất này không chỉ gây ra những tranh cãi giữa hai nền kinh tế lớn là châu Âu và Trung Quốc, mà còn dẫn tới những sự bất đồng ngay trong chính nội bộ các nước EU.
Theo Ủy ban châu Âu (EC), châu Âu cần tự bảo vệ mình trước làn sóng xe điện giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc vốn được hưởng lợi một cách không công bằng từ trợ cấp của nhà nước. Trong một tuyên bố đưa ra hôm 2/10, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã khẳng định sự ủng hộ đối với quan điểm này khi cho rằng, EU cần "tái lập sân chơi bình đẳng" với Bắc Kinh trong lĩnh vực xe điện.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cho biết: "Chúng ta phải duy trì một sân chơi bình đẳng, và khi các doanh nghiệp châu Âu phải cạnh tranh với những doanh nghiệp nước ngoài được hưởng các khoản trợ cấp quá lớn, chúng ta phải khắc phục tình trạng này. Đó là lý do vì sao tôi ủng hộ quan điểm của Ủy ban châu Âu về vấn đề xe điện Trung Quốc".
Theo Reuters, quan điểm của Pháp nhận được sự chia sẻ của một số nước như Italy, Hy Lạp, Hà Lan và Ba Lan. Ở chiều ngược lại, một số nước, trong đó có Đức - nước có ngành công nghiệp ô tô lớn nhất châu Âu, kêu gọi EU cần duy trì "đối thoại cởi mở" với Trung Quốc về vấn đề ô tô điện.
Ông Robert Habeck - Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Kinh tế Đức cho biết: "Tôi nghĩ rằng thuế quan có thể cần thiết trong một số trường hợp, nhưng trong trường hợp cụ thể này và trong một số trường hợp khác nữa, chúng ta cần một giải pháp chính trị. Việc áp thuế quan sẽ dẫn tới các động thái trả đũa, leo thang căng thẳng. Đó không phải là giải pháp đúng đắn".
Trong bối cảnh nội bộ châu Âu có nhiều bất đồng, suốt nhiều tháng qua, Trung Quốc đã nỗ lực thuyết phục các nước thành viên của khối phản đối đề xuất áp thuế, từ việc mở các cuộc đàm phán, đưa ra các cam kết đầu tư kinh tế, cho tới triển khai các biện pháp trả đũa nhằm vào những mặt hàng xuất khẩu của EU như rượu, thịt lợn và sữa.
Các nỗ lực này đã mang lại một số kết quả nhất định, khi Hungary liên tục khẳng định sẽ phản đối đề xuất áp thuế, còn Tây Ban Nha từ chỗ ủng hộ đề xuất, hiện đang cho thấy quan điểm chưa rõ ràng.
Đề xuất của EC có thể nhận được đủ sự ủng hộ
Với sự chia rẽ về quan điểm giữa các nước thành viên EU, những kết quả nào có thể xảy ra trong cuộc bỏ phiếu sắp tới? Liệu các nỗ lực của Trung Quốc có đủ để giúp ngành xe điện nước này tránh được nguy cơ bị áp thuế bổ sung?
Theo các quy tắc của EU, việc áp thuế sẽ không xảy ra nếu có đủ 15 quốc gia EU đại diện cho 65% dân số của khối bỏ phiếu chống lại đề xuất này. Đây cũng là kịch bản khả quan nhất mà Trung Quốc đang muốn hướng tới. Tuy nhiên, khả năng này là không cao.
Bởi Reuters trích dẫn nguồn tin từ các quan chức châu Âu cho biết là hiện đã có ít nhất Pháp, Hy Lạp, Italy và Ba Lan - đại diện cho 39% dân số EU dự kiến sẽ bỏ phiếu thuận, ủng hộ việc áp thuế xe điện Trung Quốc. Chỉ cần như vậy là đã đủ để thúc đẩy đề xuất thuế quan của EC.
Lo ngại thuế quan ảnh hưởng tới ngành ô tô Trung Quốc và EU
Những lo ngại về thuế quan và sự gia tăng căng thẳng thương mại, đang tác động tiêu cực đến cả ngành công nghiệp ô tô của Trung Quốc lẫn EU.
Các số liệu thống cho thấy, hoạt động kinh doanh của các hãng xe Trung Quốc tại châu Âu đang chịu áp lực đáng kể từ nguy cơ bị áp thuế. Lượng xe điện Trung Quốc được bán tại EU trong tháng 8 đã giảm 48% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu tháng giảm thứ hai liên tiếp và rơi xuống mức thấp nhất trong 18 tháng qua.
Trong khi đó, ngành công nghiệp ô tô châu Âu nhìn chung cũng có quan điểm phản đối thuế quan, đặc biệt là các nhà sản xuất ô tô Đức, vốn có tới gần một phần ba doanh số bán hàng là tại thị trường Trung Quốc.
Volkswagen và BMW đã kêu gọi chính phủ Đức bỏ phiếu chống lại quyết định tăng thuế của EU, vì điều này có thể sẽ gây ra "các tranh chấp thương mại không có lợi cho bất kỳ bên nào". Nhiều chuyên gia cũng cảnh báo, thuế quan có thể ảnh hưởng đến các quan hệ hợp tác giữa ngành công nghiệp ô tô của cả hai bên.
Ông Hubert Testard - Chuyên gia kinh tế, Viện Nghiên cứu Chính trị Paris đánh giá: "Đối với ngành công nghiệp ô tô châu Âu, việc không chuyển đổi thành công sang điện khí hóa sẽ khiến thị phần bị thu hẹp. Điều này rất quan trọng đối với châu Âu. Các nước châu Âu đã nhận ra điều này và đang đẩy mạnh đầu tư. Sự hợp tác đáng kể về công nghệ giữa các hãng xe châu Âu với Trung Quốc cũng sẽ hỗ trợ cho quá trình này. Mối quan hệ giữa hai bên không chỉ là cạnh tranh, mà còn có cả khía cạnh hợp tác nữa".
Một tín hiệu tích cực là châu Âu sẽ vẫn tiếp tục các nỗ lực đàm phán với Trung Quốc, ngay cả khi đề xuất áp thuế được thông qua. Các nguồn tin từ châu Âu cho biết, giới chức EC đang cân nhắc các giải pháp thay thuế cho thuế quan với Trung Quốc, bao gồm việc đưa ra cơ chế giá nhập khẩu tối thiểu, hạn ngạch nhập khẩu hoặc yêu cầu các cam kết đầu tư của Trung Quốc vào EU.
Hai bên sẽ cần tìm ra một giải pháp trước ngày 30/10, thời hạn chót để EC áp đặt thuế quan một cách dứt khoát trong vòng 5 năm tới.
NAN GIẢI BÀI TOÁN BẢO ĐẢM CHUỖI CUNG ỨNG
.jpg)
Chuyển đổi năng lượng, chìa khóa chủ chốt để chống biến đổi khí hậu, phải bắt đầu từ việc phi các-bon hóa các hoạt động của nhân loại, từ giao thông, phương thức sản xuất, hoạt động nhà xưởng, cho đến xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng những hệ thống năng lượng tái tạo sử dụng nhiều thứ kim loại « thiết yếu ». Trong cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng những nguồn nguyên liệu không thể thiếu này, châu Âu bị « kẹp » giữa hai ông khổng lồ Mỹ và Trung Quốc.
Các lãnh chúa vàng đen ngày nay hiểu rất rõ một điều: Thế kỷ XX là của dầu hỏa, nhưng thế kỷ XXI sẽ là của kim loại. Quá trình chuyển đổi năng lượng xanh và số hóa nền kinh tế thế giới đang thúc đẩy nhu cầu về khoáng sản tăng vọt. Những linh kiện dùng để chế tạo các hệ thống năng lượng xanh như bảng năng lượng mặt trời, phong điện, pin cho xe ô tô điệ,n hay máy điện phân hydro, đều cần đến nhiều thứ kim loại như nickel, mangan, cobalt, lithium, than chì, cùng nhiều loại đất hiếm khác.
Cơn sốt vàng mới ?
Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), được công bố hồi tháng 5/2024, được báo Pháp Le Monde dẫn lại, để đạt được mục tiêu phát thải khí CO2 ròng từ đây đến năm 2050, mức tiêu thụ chất lithium sẽ phải tăng gấp 9 lần từ đây đến năm 2040, than chì gấp 4 lần và cobalt, nickel cùng các loại đất hiếm gấp hai lần.
Quá trình chuyển đổi năng lượng này rõ ràng đang đưa xã hội loài người chuyển từ « phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch sang phụ thuộc vào kim loại », theo nhận định của nhà nghiên cứu Stephanie Riché, phụ trách chương trình kinh tế tuần hoàn vật liệu thuộc Ủy ban Năng lượng Nguyên tử, nhân ngày hội Địa Chính Trị do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS) tổ chức ở Nantes (phía tây nước Pháp) trong hai ngày 27-28/09/2024, mà RFI là một trong số các đối tác.
Những tham vọng này đã khiến cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt giữa các đại cường nhằm bảo đảm nguồn cung những thứ kim loại chiến lược trên, đồng thời làm thay đổi sâu sắc thế cân bằng quốc tế về thị trường kim loại. Theo dự phóng của IEA, thị trường các loại khoáng sản này hiện có giá trị 325 tỷ đô la, dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040.
Nhưng trên thực tế, các khoáng sản này có giá trị cao hơn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đô la. Các cường quốc phụ thuộc vào những thứ kim loại trên vì an ninh quốc gia, do , chúng được sử dụng để sản xuất các thiết bị quân sự tinh vi, và để phát triển ngành công nghiệp xanh của chính họ.
Mỹ - Thị trường Kim loại : Từ thống lĩnh đến phụ thuộc
Cũng trong cuộc hội thảo về « Địa chính trị kim loại : Phải chăng cơn sốt vàng mới đang diễn ra ? », mà RFI Tiếng Việt có tham dự, nhà nghiên cứu Virginie Raisson-Victor, chuyên gia về các vấn đề hệ thống và thách thức chuyển đổi năng lượng, nhận định, một trong những yếu tố làm thay đổi thế cân bằng thế giới liên quan đến quặng mỏ, là mức độ tập trung cao nguồn cung các loại khoáng sản trên không chỉ về trữ lượng, khai thác, mà cả trong tinh chế và xuất khẩu.
« Để cho thấy quy mô trung bình, người ta ước tính rằng đối với hầu hết các khoáng sản, khoảng 70% sản lượng thế giới được phân bổ giữa 3, 4 hay tối đa là 5 nước, trong đó Trung Quốc gần như hiện diện một cách có hệ thống. Và sự hiện diện khắp nơi này của Trung Quốc rõ ràng không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Bắc Kinh có cả một kế hoạch chiến lược lâu dài do việc tham vọng về tự chủ đã có một kinh nghiệm tồi tệ. Trung Quốc thích nghi kém với quá trình chuyển đổi từ tự chủ năng lượng vào cuối những năm 1980 do sự phụ thuộc của họ vào dầu hỏa. »
Trong khi đó, Hoa Kỳ, quốc gia từng thống trị thị trường kim loại trong những năm 1980, đã sẵn sàng để lại ngành công nghiệp gây ô nhiễm và ít lợi nhuận cho Trung Quốc. Kết quả là, theo bà Virginie Raisson-Victor :
« Vào cuối những năm 2010, toàn cầu hóa có dấu hiệu trì trệ và cũng vào thời điểm này, nhu cầu khoáng sản bùng phát, người ta nhận thấy Nhật Bản, Hoa Kỳ, châu Âu rơi vào tình trạng phụ thuộc nhiều vào các nước vẫn tiếp tục phát triển khai thác quặng mỏ, và tất nhiên đi đầu là Trung Quốc, chẳng hạn chỉ riêng nước này tinh chế đến khoảng 60% số kim loại được sử dụng trong pin xe điện.
Ngoài sự lệ thuộc chiến lược này, vốn dĩ sẽ đặt châu Âu hay Mỹ, các nước phương Tây vào tình trạng bị cầm cố, người ta thấy rõ là nhu cầu khoáng sản khiến những nước này phải cạnh tranh với nhau. Đây chính là những gì Mỹ đang làm khi đưa ra các biện pháp bảo hộ trong đạo luật giảm lạm phát hồi năm 2022. »
Bàn cờ địa chính trị về kim loại còn thêm phần nóng bỏng khi những nguồn dự trữ khoáng sản thiết yếu tập trung chủ yếu tại những nước mà ngày nay người ta gọi là phương Nam Toàn cầu, và đặc biệt là tại các nước trong nhóm BRICS, quy tụ năm nước Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, và sắp tới là có thêm Ả Rập Xê Út. Ngoài việc thống lĩnh thị trường dầu hỏa, nước này gần đây có thêm tham vọng trở thành cường quốc khoáng sản, do có những trữ lượng dồi dào về đồng, mangan, lithium, đất hiếm và nickel.
Trung Quốc và chiến lược 25 năm
Trong toàn cảnh này, đâu là những chiến lược của Trung Quốc, Hoa Kỳ và châu Âu nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng ? Trả lời cho câu hỏi này, bà Virginie Raisson-Victor trước hết lưu ý, Trung Quốc, Mỹ và Châu Âu không xuất phát từ cùng một vạch.
Trung Quốc ngày nay có thể bỏ xa các đối thủ là nhờ có được một kế hoạch chiến lược dài hạn trong 25 năm. Ngay từ những năm 1980, Bắc Kinh đã từng tuyên bố, « Trung Đông có dầu lửa, Trung Quốc có đất hiếm ». Chiến lược này được Trung Quốc thực hiện theo bốn bước : Tự cung tự cấp, Mua hay tham gia các dự án khai thác quặng mỏ khắp nơi trên thế giới (chủ yếu ở châu Phi), Phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo và sau cùng Thúc đẩy dự án Con đường Tơ lụa Mới năm 2013, cho phép nhập khẩu và xuất khẩu các yếu tố cần thiết cho ngành công nghiệp Trung Quốc.
Trong vòng 25 năm, Bắc Kinh đã khẳng định thế thống trị trên trường quốc tế, buộc các đối tác châu Âu thực hiện chuyển đổi năng lượng theo nhịp độ và tầm nhìn địa chính trị của Trung Quốc và nhất là tạo một thế mạnh cho Bắc Kinh trong mối quan hệ với Washington. Khi chính quyền Biden cấm xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều loại linh kiện bán dẫn rất tinh vi, Bắc Kinh đã không ngần ngại đáp trả bằng cách giảm xuất khẩu germanium, gallium và than chì sang Mỹ.
Cũng chính trong bối cảnh căng thẳng quan hệ với Trung Quốc mà Hoa Kỳ vạch ra hai trục chiến lược chính : Thứ nhất là tái khởi động ngành khai thác quặng mỏ trong nước để thúc đẩy sản xuất nội địa. Đạo luật về sản xuất quốc phòng cho phép tăng cường tài trợ khai thác, chế biến và tái chế các kim loại chiến lược cho Mỹ. Trục chính thứ hai là mở rộng đối tác Friendshoring mà Mỹ ký kết với các nước thành viên trong nhóm G7, tạo thuận lợi cho việc di dời nhà xưởng về các nước bằng hữu và tăng cường hợp tác đối tác về khai thác, chế biến, và tái chế kim loại.
Châu Âu giữa hai gọng kềm Mỹ - Trung
Trong bối cảnh này, châu Âu nằm kẹp giữa hai ông khổng lồ, rơi vào thế lúng túng, vì không muốn bị giam hãm trong cuộc đọ sức Mỹ - Trung. Một mặt, châu Âu đang chịu nhiều áp lực từ hai phía, nhưng mặt khác châu Âu vẫn muốn bám chặt vào chủ trương « tự do mậu dịch », có thể nói là kim chỉ nam trong quá trình xây dựng khối 27 nước thành viên.
Do vậy, theo nhận định của nhà nghiên cứu Virginie Raisson-Victor, châu Âu khó có thể có cùng kiểu chiến lược như Mỹ hay Trung Quốc. Điểm hạn chế của châu Âu còn nằm ở việc thiếu hợp tác giữa các nước thành viên, và điều này cản trở khả năng xây dựng các nền công nghiệp khoáng sản, cũng như là tạo thế mạnh cho « ngoại giao khoáng sản ».
Đây là điều mà tổng thống Pháp Emmanuel Macron gần đây nỗ lực thực hiện khi thăm các nước Mông Cổ, Kazakhstan hay Chilê để đàm phán một thỏa thuận sản xuất và bán nguyên liệu. Tuy nhiên, theo nhà báo Guillaume Pitron, chuyên gia về nguyên nhiên liệu thiết yếu, chính sách « ngoại giao quặng mỏ » cũng có những hạn chế. Các nước sản xuất – khai thác kim loại giờ muốn trở thành một kiểu quốc gia mà tuần báo Anh The Economist gọi là Electro States:
« Các nước sản xuất khoáng sản ngày nay hay những nước đang trên đà trở thành các nước sản xuất lớn, hoàn toàn nhận thức được rằng, nếu muốn trở thành nhà sản xuất lớn hoặc giành chiến thắng quá trình chuyển đổi năng lượng, họ không chỉ khai thác kim loại và nghiền đá mà còn phải sản xuất các công nghệ chế biến, mang lại cho những viên đá các giá trị gia tăng và sau cùng là bán ô tô điện. Và ngày nay, nước thực hiện thành công nhất trong chiến lược dài hạn 25 năm chính là Trung Quốc. »
Khó khăn thứ hai, theo bà Virginie Raisson-Victor là nguồn dự trữ tài nguyên của châu Âu phân bổ không đồng đều. Việc tái khởi động khai thác mỏ rất tốn kém, cần nhiều khoảng đầu tư lớn trong dài hạn. Kế hoạch này đòi hỏi một chiến lược công nghiệp thực sự phải đi từ khai thác, chế biến cho đến có được thành phẩm sau cùng, theo như phân tích của nhà báo Guillaume Pitron tại ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024:
« Trước hết, phải mất nhiều thời gian hơn để mở một quặng mỏ, trung bình là 16 năm rưỡi, theo số liệu của IEA. Thứ hai, phải tạo ra một chuỗi giá trị, vì vậy phải đưa ra một chiến lược công nghiệp mà tôi sẽ phải mất 25 năm mới có thể đi thẳng đến việc sản xuất pin ô tô điện. Đây là quãng thời gian Trung Quốc đã mất để làm được điều này. Điều đó cũng có nghĩa là phải có nguồn nhân lực, đường sá, bến cảng, nhà máy điện để chế biến kim loại cho quá trình chuyển đổi năng lượng, có nghĩa là phải có một nhà nước ổn định, có thể không dân chủ, nhưng có sự ổn định để trấn an các nhà đầu tư, tuy có chút tham nhũng. »
Dù vậy, Châu Âu cũng nỗ lực đưa ra vài sáng kiến để bảo đảm nguồn cung nguyên liệu : Kế hoạch hành động về nguyên nhiên liệu nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng, phát triển khả năng khai thác mỏ và phát triển công nghệ tái chế, hình thành Liên minh châu Âu về nguyên nhiên liệu trong nỗ lực phối hợp các tác nhân nhà nước và tư nhân tạo thuận lợi cho việc khai thác quặng mỏ trên lục địa cũng như là khuyến khích phát triển quan hệ đối tác với các nước nằm ngoài khối Liên Âu.
Cuối cùng là đầu tư trong ngành công nghiệp tái chế. Tuy nhiên, một lần nữa, trong lĩnh vực này, châu Âu và Mỹ lại bị Trung Quốc cùng nhiều nước Đông Nam Á qua mặt. Để có thể bảo đảm chuỗi cung ứng, châu Âu giờ đành phải đi ngược với mong muốn của Hoa Kỳ, mở rộng hợp tác công nghệ tái chế với nhiều tác nhân khác, kể cả với đối thủ của Washington là Bắc Kinh, theo như ghi nhận của nhà nghiên cứu Stephanie Riché !
EU HOÃN THI HÀNH LUẬT CHỐNG PHÁ RỪNG 1 NĂM
Theo phóng viên TTXVN tại Brussels, ngày 2-10, Ủy ban châu Âu (EC) đã quyết định trì hoãn một năm, đến cuối năm 2025, việc thực thi Luật chống phá rừng.
Quyết định này được đưa ra sau khi nhận được nhiều phản hồi từ các quốc gia thành viên, trong đó có Đức, và các đối tác thương mại lớn như Brazil.
Luật chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR), được thông qua vào cuối năm 2022, dự kiến sẽ có hiệu lực vào cuối năm nay, nhằm ngăn chặn việc nhập khẩu các sản phẩm gây ra phá rừng như ca cao, cà phê, dầu cọ, thịt bò và gỗ. Luật quy định các doanh nghiệp phải chứng minh được sản phẩm của họ không liên quan đến việc phá rừng hoặc suy thoái rừng từ năm 2020.
Tuy nhiên, việc thực thi luật này gặp phải nhiều khó khăn. Nhiều quốc gia xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn đã bày tỏ sự lo ngại về những tác động tiêu cực của luật mới đối với nền kinh tế của họ. Brazil, một trong những nhà sản xuất nông sản lớn nhất thế giới, đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, coi luật này là một "công cụ trừng phạt một chiều".
Trước những lo ngại này, EC đã quyết định trì hoãn một năm để các doanh nghiệp và các quốc gia có thêm thời gian chuẩn bị. Quyết định này đã nhận được sự ủng hộ của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng lại vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các tổ chức bảo vệ môi trường.
Các nhà môi trường nhận định việc trì hoãn thực thi luật chống phá rừng là một bước lùi lớn trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Họ nhận thấy việc phá rừng là một trong những nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học suy giảm, và việc trì hoãn sẽ làm chậm quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
Trong khi đó, các doanh nghiệp và một số quốc gia thành viên EU lại cho rằng cần có thêm thời gian để thích ứng với những yêu cầu mới của luật. Họ lo ngại việc thực thi luật quá nhanh sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Quyết định trì hoãn thực thi luật chống phá rừng của EU được xem là một bước đi cần thiết để đảm bảo rằng các quy định được thực hiện một cách hiệu quả và công bằng. Điều này không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn hỗ trợ các doanh nghiệp và quốc gia trong việc chuyển đổi sang các phương thức sản xuất bền vững hơn.
ANH NHƯỢNG CHỦ QUYỀN CỦA QUẦN ĐẢO CHAGOS CHO MAURITIUS
.jpg)
Nước Anh hôm 3/10 nói rằng họ sẽ nhượng chủ quyền của quần đảo Chagos cho Mauritius trong một thỏa thuận mà họ nói là đảm bảo cho tương lai của căn cứ quân sự Diego Garcia mà hai nước Anh-Mỹ sử dụng, và cũng có thể mở đường cho những người bị mất nhà cửa hàng thập kỷ trước trở về nhà.
Tổng thống Mỹ Joe Biden đã hoan nghênh thỏa thuận này, và nói rằng nó sẽ đảm bảo cho căn cứ Diego Garcia hoạt động hiệu quả. Đây là căn cứ không quân chiến lược quan trọng ở Ấn Độ Dương cho tới thế kỷ tới.
Nhưng những người chỉ trích ở Anh nói rằng đó là sự đầu hàng khiến cho Trung Quốc, quốc gia có quan hệ thương mại chặt chẽ với Mauritius, hưởng lợi, trong khi một nhóm đại diện cho những người dân đảo Chagos đã bị mất nhà cửa bày tỏ sự tức giận về việc họ đã không được dự đàm phán.
Ngoại trưởng Anh David Lammy cho biết thỏa thuận này đã giải quyết tranh chấp chủ quyền của quần đảo, lãnh thổ hải ngoại cuối cùng của Anh ở châu Phi, trong khi những vụ kiện cáo đang diễn ra đã làm tổn hại cho tương lai của Diego Garcia về lâu dài.
Ông nói căn cứ này, mà ý nghĩa chiến lược của nó đã được chứng tỏ trong các cuộc xung đột ở Iraq và Afghanistan khi nó được dùng làm một bệ phóng cho các máy bay ném bom tầm xa, hiện đã được đảm bảo trong ít nhất 99 năm.
“Thỏa thuận hôm nay... sẽ tăng cường vai trò của chúng tôi trong việc bảo vệ an ninh toàn cầu”, ông Lammy nói trong một tuyên bố.
Ông Biden hưởng ứng quan điểm đó và nói rằng căn cứu Diego Garcia đóng ‘vai trò quan trọng trong an ninh quốc gia, khu vực và toàn cầu’.
"Nó tạo điều kiện cho Mỹ hỗ trợ các hoạt động thể hiện cam kết chung của chúng tôi cho ổn định khu vực, đem đến khả năng phản ứng nhanh trước khủng hoảng và đẩy lùi một số mối đe dọa an ninh thách thức nhất mà chúng ta phải đối mặt”, ông nói.
Anh, nước đã kiểm soát khu vực này từ năm 1814 và vào năm 1965 đã tách quần đảo Chagos khỏi Mauritius - một thuộc địa cũ giành được độc lập 3 năm sau đó - để cho ra đời Lãnh thổ Anh ở Ấn Độ Dương.
Vào đầu những năm 1970, Anh đã trục xuất gần 2.000 cư dân ở đảo này đến Mauritius và Seychelles để nhường chỗ cho một căn cứ không quân trên Diego Garcia, hòn đảo lớn nhất của quần đảo mà họ đã cho Mỹ thuê vào năm 1966.
Một nghị quyết không mang tính ràng buộc tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2019 nói rằng Anh nên từ bỏ quyền kiểm soát quần đảo sau khi buộc người dân rời đi một cách sai trái.
Năm 2016, Bộ Ngoại giao Anh đã gia hạn hợp đồng thuê Diego Garcia đến năm 2036 và tuyên bố rằng những người sống trên đảo đã bị trục xuất thì sẽ không được phép quay trở lại.
Thỏa thuận mới ghi rằng Mauritius sẽ được quyền triển khai một chương trình tái định cư trên các hòn đảo khác ngoài Diego Garcia, và các điều khoản thì để cho Mauritius quyết định.
“Chúng tôi được dẫn dắt bằng niềm tin hoàn thành phi thực dân hóa nền cộng hòa của chúng tôi”, Thủ tướng Mauritius Pravind Jugnauth nói trong một bài phát biểu trên truyền hình.
Olivier Bancoult, lãnh đạo Nhóm tị nạn Chagos có trụ sở tại Mauritius, nói thỏa thuận này đánh dấu một bước ngoặt quyết định và một sự thừa nhận chính thức về những bất công mà người Chagossia phải chịu đựng.
Thủ tướng Anh Keir Starmer, người đã nói rằng chính phủ của ông, một phần được định hình bởi sự tôn trọng luật pháp quốc tế sau khi Đảng Lao động của ông lên nắm quyền hồi tháng Bảy, đã ưu tiên giải quyết vấn đề này.
Tuy nhiên, các nhân vật hàng đầu trong Đảng Bảo thủ đối lập, vốn đã khởi động các cuộc đàm phán khi còn nắm quyền, đã chỉ trích thỏa thuận.
Phát ngôn nhân an ninh của Đảng bảo thủ Tom Tugendhat nói thỏa thuận này làm suy yếu các đồng minh của Anh và mở ra khả năng Trung Quốc giành được chỗ đứng quân sự ở Ấn Độ Dương.
“Đây là sự đầu hàng nguy hiểm sẽ trao lãnh thổ của chúng ta cho một đồng minh của Bắc Kinh”, Robert Jenrick, người ở vị trí hàng đầu để trở thành lãnh đạo Đảng Bảo thủ tiếp theo, viết trên X.
Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng; VTV; RFI; Tuổi Trẻ; VOA
Bình luận và đánh giá
Gửi nhận xét đánh giá